Bản án 66/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 66/2019/HSST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 326/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Huỳnh Anh C, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1989, tại Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã X, thị xã Y, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Huỳnh Văn B và bà Trần Thị Ngọc N; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 31/12/2018 tại nhà tạm giữ Công an Quận 1. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê Trung T, sinh năm: 1970 Nơi cư trú: A2 14-18 chung cư Gold View, Bến Vân Đồn, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

- Bà Lê Thị T, sinh năm: 1991 Nơi cư trú: Số 66 Nguyễn Ngọc Phương, phường X, quận Y, Thành phố H.(vắng mặt)

- Bà Hoàng Thị Thu T, sinh năm: 1990 Nơi cư trú: Phòng 719, lô C, chung cư Phạm Viết Chánh, phường X, quận Y, Thành phố H. (vắng mặt)

- Bà Nguyễn Thị Vân A, sinh năm: 1992 Nơi cư trú: Số 212B/D14 Bis Nguyễn Trãi, phường X, quận Y, Thành phố H. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội, Huỳnh Anh C quen biết một người bạn tên James không rõ lai lịch và quốc tịch, khi James đến Việt Nam chơi biết C sử dụng ma túy nên James đã cho C 03 gói nylon chứa ma túy trước khi về nước. C cất giữ số ma túy trên vào túi xách đợi có dịp sử dụng. Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 31/12/2018, C điều khiển xe ôtô biển số 51G-484.13 chở 04 người bạn gồm Lê Trung T, Lê Thị T, Hoàng Thị Thu T, Nguyễn Thị Vân A khi lưu thông đến trước nhà số 211 đường Nguyễn Thái Học, phường X, Quận Y, Thành phố H do có biểu hiện nghi vấn nên đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 1 yêu cầu dừng xe kiểm tra làm rõ. Qua kiểm tra trong xe phát hiện tại chỗ C ngồi có 01 túi xách màu đen hiệu Jack Wolfskin, lúc này C tự lấy trong túi xách ra 03 gói nylon bên ngoài có ký hiệu ALABAMA WILOFIRE bên trong có hoa, lá, cành khô; 01 gói nylon bên trong có chất bột màu trắng; 01 gói nylon bên trong có 01 tờ tiền, trong tờ tiền có 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng; 01 gói nylon bên ngoài có quấn băng keo màu đen bên trong có 01 viên nén màu hồng. C khai là cỏ Mỹ và ma túy tổng hợp của C để sử dụng nên tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số: 301/KLGĐ-H ngày 07/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Bột màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,6458g, loại Ketamine.

- Bột màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0590g, loại Cocaine.

- 01 viên nén màu hồng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4054g, loại MDMA.

Theo bản kết luận giám định số: 687/C09B ngày 21/01/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 03 gói nylon nhãn hiệu “ALABAMA WILOFIRE”, qua giám định là ma túy, khối lượng 23,0315g, loại AMB-FUBINACA.

Bản cáo trạng số: 51/CT-VKSQ1 ngày 10/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Huỳnh Anh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh tụng: Sau khi kiểm tra đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tình tiết khác của vụ án, bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 20 (hai mươi) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, phạt tiền bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 301/19 chứa chất ma túy bên trong có 1,6458 gram ma túy, loại Ketamine; 0,0590 gram ma túy, loại Cocaine; 0,4054 gram ma túy, loại MDMA.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 687/109B chứa chất ma túy bên trong có 23,0315 gram ma túy, loại AMB-FUBINACA; 01 túi vải màu đen ghi chữ Jack Wolfskin;

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền 01 USD.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone, số imei: 353317070836037; 01 chứng minh nhân dân tên Huỳnh Anh C; 01 giấy phép lái xe loại B2 tên Huỳnh Anh C nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

- Trả lại ông Lê Trung T 01 xe ôtô biển số 51G-484.13.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Anh C đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, tờ tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định,… nên có căn cứ để kết luận bị cáo Huỳnh Anh C đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng 1,6458g, ma túy ở thể rắn, loại Ketamine;

0,0590g, ma túy ở thể rắn, loại Cocaine; 0,4054g, ma túy ở thể rắn, loại MDMA và 23,0315g ma túy, loại AMB-FUBINACA. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Huỳnh Anh C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với quyết tâm cao. Bị cáo đủ nhận thức để biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì muốn thỏa mãn với động cơ cá nhân nên bất chấp xem thường pháp luật cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[6] Đối với người tên James cho ma túy cho bị cáo C, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiếp tục xác minh làm rõ có cơ sở xử lý sau.

[7] Đối với Lê Trung T, Lê Thị T, Hoàng Thị Thu T, Nguyễn Thị Vân A khai nhận túi xách cơ quan điều tra thu giữ trong xe là của C, không biết C cất giữ ma túy trong túi xách và cũng chưa từng sử dụng ma túy với C nên cơ quan điều tra Công an Quận 1 không xử lý là có cơ sở.

[8] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 301/19 chứa chất ma túy bên trong có 1,6458 gram ma túy, loại Ketamine; 0,0590 gram ma túy, loại Cocaine; 0,4054 gram ma túy, loại MDMA (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định) cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 687/109B chứa chất ma túy bên trong có 23,0315 gram ma túy, loại AMB-FUBINACA (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định); 01 túi vải màu đen ghi chữ Jack Wolfskin thu giữ của C cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 tờ tiền 01 USD thu giữ của C cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone, số imei: 353317070836037; 01 chứng minh nhân dân tên Huỳnh Anh C; 01 giấy phép lái xe loại B2 tên Huỳnh Anh C thu giữ của bị cáo C, xét thấy không liên quan đến vụ án nên cần xem xét để trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

- Đối với 01 xe ôtô biển số 51G-484.13, số khung: RN2BN47A6HC68353, số máy: PE20914237 thu giữ của bị cáo C. Qua xác minh xe do ông Lê Trung T, sinh năm 1970, trú tại A2 14-18 chung cư Gold View, đường Bến Vân Đồn, phường X, Quận Y, Thành phố H đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 31/12/2018, ông T đưa xe cho C điều khiển, việc C cất giữ ma túy ông T không biết. Xét thấy không liên quan đến vụ án nên cần xem xét để trả lại cho ông T.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Tuyên bố: Huỳnh Anh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; phạt bị cáo Huỳnh Anh C 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2018.

Buộc bị cáo Huỳnh Anh C phải nộp phạt 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 301/19; 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 687/109B chứa chất ma túy.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) tờ tiền 01 USD.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 63/19-PNK ngày 08/3/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi vải màu đen ghi chữ Jack Wolfskin.

Trả lại bị cáo Huỳnh Anh C 01 (một) điện thoại di động Iphone, số imei: 353317070836037; 01 (một) chứng minh nhân dân tên Huỳnh Anh C; 01 (một) giấy phép lái xe loại B2 tên Huỳnh Anh C, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

Trả lại ông Lê Trung T 01 (một) xe ôtô biển số 51G-484.13, số khung:m RN2BN47A6HC68353, số máy: PE20914237.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 37/19-PNK ngày 30/01/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Huỳnh Anh C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền phải thi hành án, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015. Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự; trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo Huỳnh Anh C được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về