Bản án 66/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 66/2018/HS-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 20 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Trọng T, sinh năm 1990 tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã Y, huyện Z, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay: Khu tập thể công nhân Công ty LP thuộc khu công nghiệp M, xã Y, huyện Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 10/12; cha: Trần Trọng Chn; mẹ: Trần Thị A; có vợ là Lê Thị Thùy L và 01 con sinh năm 2015; Bị bắt tạm giam ngày 29/11/2017 (có mặt).

- Bị hại:

1. Anh Huỳnh Dương H, sinh năm 1993 (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1961 là mẹ ruột của bị hại (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp X2, xã Y2, huyện Z2, tỉnh Đồng Nai.

2. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989 (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm  1963 là cha ruột của bị hại (có mặt);

Địa chỉ: Ấp X3, xã Y3, huyện Z3, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Bị đơn dân sự: Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ giao nhận vận tải LP; mặt);

Địa chỉ: phường X4, Quận Y4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Hữu Th - Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thanh L, sinh năm 1981 (có

Địa chỉ: Ấp X5, xã Y5, huyện Z5, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Trọng T là lái xe của Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ giao nhận LPcó địa chỉ tại phường X4, Quận Y4, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 17/6/2017, Tâm điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C – 532.21, kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 51R–190.66 lưu thông theo hướng đường N1-2 đi đường N2-2. Khi đi đến ngã tư giao nhau cùng mức với đường D2-1, D2-2 thuộc khu công nghiệp Mỹ Xuân A2, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu, do Tâm điều khiển xe ô tô không giảm tốc độ đến mức an toàn nên đã gây ra vụ va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 60C1–770.24 do anh Huỳnh Dương H điều khiển từ đường D2-2 đi đường D2-1 (hướng từ bên trái qua bên phải theo hướng xe ô tô lưu thông), phía sau xe chở chị Nguyễn Thị L. Hậu quả xảy ra đã làm anh H và chị L bị thương nặng, sau đó đã chết tại Bệnh viện.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 180A/PC54  ngày 26/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xác định đối với chị Nguyễn Thị L:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tụ máu dưới da đầu vùng thái dương phải và vùng chẩm – đỉnh – thái dương trái. Nứt sọ từ chẩm trái đến đỉnh, dài 14cm. Tụ máu dưới màng cứng bán cầu não phải. Não phù. Chảy máu não và tụ máu trong các khe bán cầu não bán cầu não phải. Gãy cung trước xương sườn 4 – 5 – 6 – 7 hai bên. Gãy 1/3 giữa xương mác phải.

2. Nguyên nhân chết do đa chấn thương: Nứt sọ, tụ máu não, phù não, gãy đa xương.

- Vật tác động gây chết là vật tày, diện tiếp xúc rộng, tác động trực tiếp vào vùng đầu cơ thể nạn nhân theo chiều từ trái qua phải, chếch từ sau ra trước; tác động trực tiếp vào vùng ngực, cẳng chân phải cơ thể nạn nhân theo chiều từ trước ra sau.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 180B/PC54 ngày 20/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xác định đối với anh Huỳnh Dương H:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tụ máu dưới da đầu vùng trán – đỉnh – thái dương trái. Vỡ sọ vùng trán – đỉnh – thái dương trái, kích thước 12cm x10cm. Tụ máu dưới màng cứng hai bán cầu đại não. Dập – chảy máu não vùng đỉnh – thái dương phải.

2. Nguyên nhân chết: do đa chấn thương sọ não: Vỡ sọ, dập – chảy máu não.

- Vật tác động gây chết là vật tày, diện tiếp xúc rộng, tác động trực tiếp vào vùng đầu cơ thể nạn nhân theo chiều từ trái qua phải.

3. Kết luận khác: Trong máu tử thi Huỳnh Dương H, tìm thấy cồn Ethanol – Nồng độ 1,2g/l.

Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là khu vực ngã tư giao nhau cùng mức giữa đường D2-1, D2-2 với đường N1-2, N1-1 thuộc KCN Mỹ Xuân A2, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng; mặt đường N1-2, N1-1 rộng 7,40 mét, mặt đường D2-1, D2-2 rộng 7,40 mét, trên mặt đường không có vạch sơn kẻ đường. Chọn lề chuẩn là mép lề đường bên phải từ đường N1-2 đi N1-1 và điểm cố định là cột điện số 476MX. Tất cả các dấu vết, phương tiện có tại hiện trường đo vào lề chuẩn như sau:

Vị trí xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C – 532.21, kéo rơ mooc biển kiểm soát 51R – 190.66 sau tai nạn dừng trên đường N1-1; đầu xe quay về hướng đường N1-1, đuôi xe quay về hướng đường N1-2. Tâm trục bánh xe đầu tiên bên phải xe ô tô đầu kéo đo vào lề là 2,50 mét; tâm trục bánh xe sau cùng bên phải rơ mooc đo vào lề là 2,15 mét; tâm trục bánh xe sau cùng bên trái rơ mooc đo đến cột điện cố định của hiện trường là 9,65 mét.

Vị trí xe mô tô biển kiểm soát 60C1 – 770.24 sau tai nạn ngã phần thân bên trái xuống mặt đường, nằm trong gầm xe ô tô đầu kéo 51C – 532.21; đầu xe quay hướng vào lề chuẩn, đuôi xe quay hướng vào lề đối diện. Tâm trục bánh xe trước đo vào lề là 4,00 mét, tâm trục bánh xe sau đo vào lề là 3,10 mét. Xe mô tô ngã để lại vết cày không liên tục, kéo dài đến vị trí xe mô tô ngã, đầu vết cày đo vào lề là 3,00 mét, đầu vết cày đo đến trục giữa xe mô tô là 32,20 mét.

Trên hiện trường có vết máu: Vị trí vết máu thứ 1 nằm trong lề chuẩn, vết máu đo ra lề chuẩn là 2,55 mét, đo đến trục giữa xe mô tô là 16,40 mét; Vị trí vết máu thứ 2 nằm trên mặt đường nhựa, vết máu đo vào lề là 0,80 mét, đo đến trục giữa xe mô tô là 12,45 mét.

Khu vực va chạm xác định: Tâm khu vực va chạm đo vào lề là 3,15 mét, đo đến đầu vết cày xe mô tô là 1,65 mét, đo đến lốc máy xe mô tô là 33,85 mét, đo đến tâm trục bánh xe sau cùng bên phải rơ mooc là 19,20 mét.

Nguyên nhân xảy ra tai nạn: Vụ tai nạn giao thông xảy ra do lỗi hỗn hợp: Anh Huỳnh Dương H điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe, trong tình trạng nồng độ cồn quá mức cho phép 1,2g/l; khi đi đến ngã tư nơi giao nhau cùng mức không nhường cho phương tiện lưu thông đến từ phía bên phải vi phạm khoản 8, Điều 8; Điều 24; Điều 59 của Luật giao thông đường bộ. Trần Trọng T điều khiển xe ô tô đến khu vực ngã tư nơi giao nhau cùng mức, khu vực nguy hiểm không giảm tốc độ đến mức an toàn vi phạm Điều 11 của Luật giao thông đường bộ và Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải.

Về phương tiện, vật chứng trong vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Thành đã trả lại chiếc xe ô tô đầu kéo và rơ mooc cho Công ty TNHH Long Phú; trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 60C1 – 770.24 cho gia đình anh Huỳnh Dương H.

Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH LPđã bồi thường cho gia đình anh Huỳnh Dương H số tiền 80.000.000 đồng và bồi thường cho gia đình chị Nguyễn Thị L số tiền 160.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 02/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố Trần Trọng T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã  truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 202; các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Tâm từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong

Bị cáo Tâm thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là đúng và không có ý kiến gì đối với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện gia đình các bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và lời khai của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó đã xác định được vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 17/6/2017, bị cáo Tâm điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-532.21 kéo theo rơ mooc  biển kiểm soát 51R-190.66 lưu thông theo hướng đường N1-2 đi đường N2-2. Khi đi đến ngã tư nơi đường giao nhau cùng mức với đường D1-2 thuộc khu công nghiệp Mỹ Xuân A2, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành bị cáo điều khiển xe ô tô nhưng không giảm tốc độ đến mức an toàn nên đã gây ra va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 60C1-770.24 do anh Huỳnh Dương H điều khiển, phía sau chở chị Nguyễn Thị L đang lưu thông từ hướng đường D2-2 đi đường D2-1. Hậu quả xảy ra đã làm anh H, chị Lan bị thương nặng và sau đó đã chết tại bệnh viện.

Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Trần Trọng T đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm  cho xã hội , không những đa xâm pham đến trât tư an toan công công mà còn trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Quá trình điều tra đã xác định được nguyên nhân để xảy ra vụ tai nạn là do lỗi hỗn hợp: Trong đó bị hại anh Huỳnh Dương H điều khiển xe mô tô nhưng không có giấy phép lái xe, tham gia giao thông trong tình trạng có nồng độ cồn quá mức cho phép 1,2g/l và khi đến nơi đường bộ giao nhau cùng mức đã không nhường đường cho phương tiện lưu thông đến từ phía bên phải vi phạm vào các Điều 8, 24, 59 của Luật giao thông đường bộ; đối với bị cáo Tâm điều khiển xe ô tô khi đến nơi đường bộ giao nhau cùng mức đã không chấp hành biển báo, không giảm tốc độ đến mức an toàn vi phạm vào Điều 11 của Luật giao thông đường bộ và các Điều 5, 6 của Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ Giao thông vận tải. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm răn đe, giáo dục đồng thời có tính chất phòng ngừa tội phạm chung.

4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau vụ tai nạn, bị cáo và phía bị đơn dân sự cũng đã khắc phục, bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình các bị hại và được gia đình các bị hại có đơn xin bãi nại nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 và áp dụng thêm Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội là do vô ý và vụ việc xảy ra cũng có lỗi của bị hại, do đó không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam mà áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 cho bị cáo được hưởng án treo là cũng đủ tác dụng để giáo dục đối với bị cáo.

[6] Trách nhiệm dân sự: Gia đình các bị hại và bị đơn dân sự không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên không xem xét giải quyết.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C- 532.21 và rơ mooc biển kiểm soát 51R-190.66, 01 xe mô tô biển kiểm soát 60C1-770.24 đã được trả lại cho chủ sở hữu và gia đình bị hại theo đúng quy định của pháp luật nên đã giải quyết xong;

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Trọng T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 202; các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Trần Trọng T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án (20/4/2018).

Giao bị cáo Trần Trọng T cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Bình Định và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã X giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Trọng T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). 3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của các bị hại, bị đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm (đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:66/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về