Bản án 66/2018/HNGĐ-ST ngày 01/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 66/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 10 năm 2018 tại phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2018/TLST-HNGĐ, ngày 13/7/2018 “V/v Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Thị M - Sinh năm: 1979. (Có mặt)

Địa chỉ: 165B/3 ấp HB, xã LT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Nguyễn Tấn K - Sinh năm: 1976. (Có mặt)

Địa chỉ: 165B/3 ấp HB, xã LT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/7/2018, tại phiên hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn Trương Thị M trình bày: Nguyên chúng chị M và anh K được cha mẹ hai bên tác hợp vào năm 1995 không có đăng ký kết hôn. Sau hôn nhân chúng vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2006 do cuộc sống gia đình khó khăn nên chị M đi thành phố Hồ Chí Minh làm thuê, lâu lâu về thăm gia đình. Cuộc sống vợ chồng vì xa nhau nên tình cảm ngày càng phai nhạt, mỗi người tự sống theo ý mình, ly thân với nhau từ năm 2008 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn ý nghĩa nên chị M làm đơn này yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Tấn K; Về con chung Có 01 con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 30/7/1997 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết; Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa bị đơn Nguyễn Tấn K trình bày: Lời trình bày của Trương Thị M là đúng sự thật. Vào năm 1995 được sự cho phép của gia đình hai bên, anh K và Trương Thị M cưới nhau và không đăng ký kết hôn. Thời gian sống chung vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nên hai bên không tự giải quyết được. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn và mục đích hôn nhân không đạt được. Nên anh K đồng ý ly hôn với Trương Thị M; Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 30/7/1997 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết; Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Trương Thị M và Nguyễn Tấn K sống chung như vợ chồng vào năm 1995 đến nay không đăng ký kết hôn. Thời gian sống chung rất hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân bất đồng quan điểm sống, vợ chồng lạnh nhạt thậm chí không ai quan tâm đến ai. Điều đó làm cho tình cảm vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Trương Thị M và Nguyễn Tấn K sống chung nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nên không công nhận là vợ chồng đã vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật HN&GĐ cụ thể quy định như sau “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý…”.

Tại khoản 1 Điều 14 Luật HN&GĐ có quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này…”.

Đối chiếu khoản 2 Điều 53 Luật HN&GĐ có ghi “…Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này…”.

Vì vậy về quan hệ hôn nhân của Trương Thị M và Nguyễn Tấn K là không công nhận quan hệ vợ chồng.

[2] Về con chung: Trương Thị M và Nguyễn Tấn K có 01 con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 30/7/1997 đã thành niên mà Trương Thị M và Nguyễn Tấn K không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản và nợ chung: Trương Thị M và Nguyễn Tấn K không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Nguyên đơn Trương Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là có căn cứ, phù hợp với khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9; Khoản 1 Điều 14; Khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận Trương Thị M và Nguyễn Tấn K là vợ chồng.

2. Án phí và tạm ứng án phí sơ thẩm: Trương Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ, nhưng được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001309 ngày 13/7/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Trương Thị M đã thực hiện xong).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (01/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2018/HNGĐ-ST ngày 01/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:66/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về