Bản án 660/2019/HNGĐ-PT ngày 23/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 660/2019/HNGĐ-PT NGÀY 23/07/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 23 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2019/TLPT-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn”.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 173/2019/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2974/2019/QĐ-PT ngày 02 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Đức T1, sinh năm 1982. (có mặt)

Địa chỉ: Số 195A đường T, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị T2, sinh năm 1983. (có mặt)

Địa chỉ: Số 65 A TS 38, khu phố B, phường T, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bà Phạm Thị T2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là ông Trần Đức T1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị T2 tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008, ngày 12/12/2008. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung về cách nuôi dạy con chung, mâu thuẫn về quan hệ mẹ chồng nàng dâu, đã nhiều lần họp gia đình để thống nhất lại về quan điểm sinh hoạt trong gia đình nhưng vẫn không có kết quả. Đến tháng 7/2016 thì bà Phạm Thị T2 bỏ đi khỏi nhà, từ đó vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Năm 2017, Tòa án nhân dân quận T và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí minh đã hòa giải xử cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng vẫn không có kết quả, thỉnh thoảng vợ chồng gặp nhau vẫn không hợp về cách nuôi dạy con chung. Do đó, ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị T2 để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 03 con chung tên Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008; tên Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/9/2011 và tên Trần Gia B, sinh ngày 01/4/2013. Sau khi ly hôn, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung và không yêu cầu bà Phạm Thị T2 phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Có 02 cây vàng SJC hiện ông đang giữ, ông đồng ý cho hết bà T2 và không tranh chấp.

Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là bà Phạm Thi Tuyến trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thời gian kết hôn đúng như ông Trần Đức T1 trình bày.

Cuộc sống vợ chồng giữa bà và ông Trần Đức T1 thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2012 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân từ mẹ chồng thường xuyên chửi bà và đuổi bà ra khỏi nhà nên đến tháng 7/2017 bà đi ra khỏi nhà cho đến nay. Bà không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Trần Đức T1 vì bà không muốn con bà thiếu sự chăm sóc tình cảm của cha mẹ và gia đình.

Về con chung: Có 03 con chung tên Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008; tên Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/9/2011 và tên Trần Gia B, sinh ngày 01/4/2013. Nếu Tòa án xử ly hôn thì bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung và không yêu cầu ông Trần Đức T1 phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Có 02 cây vàng SJC hiện do ông Trần Đức T1, bà và ông Trần Đức T1 tự thỏa thuận nên không tranh chấp.

Về nợ chung: Không có.

Tại bản án sơ thẩm số 173/2019/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Đức T1 được ly hôn với bà Phạm Thị T2.

Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008 ngày 12/12/2008 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N cấp cho ông T1 và bà T2 không còn giá trị kể từ ngày Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

- Về quan hệ con chung:

Giao ba con chung tên Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008, Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/9/2011 và Trần Gia B, sinh ngày 01/4/2013 cho ông T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà T2 do ông T1 không yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong trường hợp ông T1 không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, ông, bà, hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Bà T2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trường hợp bà T2 lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T1 có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

- Về tài sản chung: Ông T1 và bà T2 xác định tự thỏa thuận không yêu cầu xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Ông T1 và bà T2 khai không có. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí:

Ông Trần Đức T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí do ông T1 đã nộp theo biên lai thu số 0012071 ngày 21/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T1 đã nộp đủ tiền án phí.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo luật định.

Ngày 01/04/2019, bà Phạm Thị T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn bà Phạm Thị T2 trình bày:

Bà đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông T1 với điều kiện ông T1 phải giao trẻ Trần Gia B cho bà trực tiếp nuôi dạy, do hiện trẻ B đang bị bệnh suyễn cần có mẹ chăm sóc, và bà đồng ý giao hai con chung còn lại là Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008 và Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/09/2011 cho ông T1 trực tiếp nuôi dạy và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Nguyên đơn ông Trần Đức T1 trình bày:

Nếu tại phiên tòa hôm nay bà T2 đồng ý ly hôn và yêu cầu nuôi trẻ Trần Gia B, sinh ngày 01/04/2013, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con thì ông đồng ý.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu trình bày ý kiến:

Về tố tụng:

Ngày 26/03/2019, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa sơ thẩm, bà T2 có mặt. Đến ngày 01/04/2019, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo của bà T2. Căn cứ Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn kháng cáo của bà Phạm Thị T2 làm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân, hai bên đương sự thuận tình ly hôn. Về con chung, hai bên thống nhất giao trẻ B cho bà T2 trực tiếp nuôi dạy, ông T1 trực tiếp nuôi dạy trẻ U và trẻ C, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung, các bên xác nhận không có, nên không xem xét. Tại phiên tòa, các bên đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng:

Ngày 26/03/2019, Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa sơ thẩm, bà T2 có mặt. Đến ngày 01/04/2019, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo của bà T2. Căn cứ Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn kháng cáo của bà Phạm Thị T2 làm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

Về nội dung kháng cáo:

Bà T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, bà cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông Trần Đức T1 hạnh phúc trong nhiều năm qua, hai bên có 03 (ba) con chung, tòa sơ thẩm chấp nhận đơn ly hôn của ông T1 và giao 03 (ba) con chung cho ông T1, trực tiếp nuôi dạy là không khách quan và không xem xét đến quyền làm mẹ của bà.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét:

Tại phiên tòa các bên đương sự tự thỏa thuận và thống nhất với nhau:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Đức T1 và bà Phạm Thị T2 tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008, ngày 12/12/2008. Đây là hôn nhân hợp pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Hai bên đương sự thống nhất thuận tình ly hôn, nên Hội đồng xét xử ghi nhận thỏa thuận nêu trên.

- Về con chung: Hai bên đương sự xác nhận có 03 (ba) người con chung là Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008 (giới tính nữ); Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/9/2011 (giới tính nữ) và Trần Gia B, sinh ngày 01/4/2013 (giới tính nam).

Tòa án cấp sơ thẩm giao cả 03 (ba) con chung cho ông T1 trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu bà T2 cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T2 yêu cầu nuôi trẻ Trần Gia B, giao hai trẻ Trần Phương Tú U và Trần Bảo Minh C cho ông T1 trực tiếp nuôi dạy và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Ông T1 chấp nhận yêu cầu kể trên của bà T2. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận này.

- Về tài sản chung: Ông T1 và bà T2 xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Ông T1 và bà T2 khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí:

- Dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì ông T1 phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

- Dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bà T2 phải nộp án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

Với những chứng cứ kể trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 308 và Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 4 Điều 147, Khoản 5 Điều 148, Điều 293 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57 và Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Sửa bản án sơ thẩm.

Ghi nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Trần Đức T1 với bà Phạm Thị T2. Quan hệ hôn nhân giữa ông T1 và bà T2 chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực thi hành. Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008, ngày 12/12/2008 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N cấp cho ông T1 và bà T2 không còn giá trị.

2. Về quan hệ con chung:

Giao hai con chung tên Trần Phương Tú U, sinh ngày 07/12/2008 (giới tính nữ) và Trần Bảo Minh C, sinh ngày 30/9/2011 (giới tính nữ) cho ông Trần Đức T1 trực tiếp nuôi dạy.

Giao con chung tên Trần Gia B, sinh ngày 01/4/2013 (giới tính nam) cho bà Phạm Thị T2 trực tiếp nuôi dưỡng.

Không bên nào phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong trường hợp ông T1, bà T2 không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, ông, bà, hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Ông T1 và bà T2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trường hợp bà T2, ông T1 lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T1, bà T2 có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

3. Về tài sản chung:

Ông T1 và bà T2 xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung:

Ông T1 và bà T2 khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Đức T1 phải chịu án phí là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí do ông T1 đã nộp theo biên lai thu số 0012071 ngày 21/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T1 đã nộp đủ tiền án phí.

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị T2 phải chịu án phí là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí do bà T2 đã nộp theo biên lai thu số 0012715 ngày 01/04/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T2 đã nộp đủ tiền án phí.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 660/2019/HNGĐ-PT ngày 23/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:660/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về