Bản án 65/2021/HSST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 65/2021/HSST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 14/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXXST-HS ngày 06/5/2021 đối với bị cáo:

Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U); sinh năm 1985 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản N, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cà Văn P (đã chết) và bà: Cà Thị L (tên gọi khác: Tòng Thị Luấn), sinh năm 1952; bị cáo có vợ là Vì Thị N (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2010; Không tiền sự, có 03 tiền án: Tại Bản án số 43/2011/HSST ngày 15/12/2011 bị TAND thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù, về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 09 tháng tù về Tội không chấp hành các hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa người vào quyết định cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính, tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 33 tháng tù; Tại Bản án số 102/2015/HSST ngày 28/9/2015 bị TAND thành phố Sơn La xử phạt 36 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 12/2015/HSST ngày 30/11/2015 bị TAND huyện Thuận Châu xử phạt 24 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt với Bản án số 102/2015/HSST ngày 28/9/2015 của TAND thành phố Sơn La buộc bị cáo phải chấp hành là 05 năm tù; nhân thân: tại Quyết định số 559 ngày 20/7/2006 bị Ủy ban nhân dân thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 12 tháng (đã xóa tiền sự); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/02/2021 đến ngày 07/4/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang tại ngoại, có mặt.

* Bị hại: Anh Lò Văn T, sinh năm 1993, trú tại: Bản Mòn, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La, vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Văn Đ, sinh năm: 1996, trú tại:

Bản Mòn, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 05/2/2021, Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) (sinh năm: 1985), trú tại: Bản N, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La đi bộ một mình dọc theo QL6A từ Bản T, xã T, huyện T lên Công viên thị trấn Thuận Châu, huyện Thuận Châu để tìm trộm cắp tài sản. Khi đến đoạn đường thuộc Tiểu khu 8, thị trấn Thuận Châu, Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) thấy 01 chiếc mô tô, BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, sơn màu đỏ - đen của anh Lò Văn Đ (sinh năm: 1996) mượn của anh Lò Văn T (sinh năm 1993), đều trú tại: Bản Mòn, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La đang dựng trước Cửa quán VIETTEL chếch hướng thành phố Sơn La, xe có chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa nên Vì nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Nhìn xung quanh không thấy ai trông coi, quản lý xe, Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) đã lén lút đến gần chiếc xe mô tô, ngồi lên yên xe, mở khóa, khởi động, điều khiển xe đi về nhà ở Bản N, xã C, thành phố S cất giấu. Ngày 17/2/2021, Công an huyện Thuận Châu đã nhận được Đơn trình báo của anh Lò Văn T, Lò Văn Đ. Đến ngày 19/2/2021, khi Vì đang tìm chỗ tiêu thụ chiếc xe mô tô ở khu vực xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu phối hợp Công an xã Chiềng Mung phát hiện, tạm giữ xe mô tô, BKS: 26B2 - 370.03. Sau đó, Tổ công tác áp giải Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) về Trụ sở Công an huyện Thuận Châu để làm rõ vụ việc, Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 38/KL-HĐĐG ngày 23/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Thuận Châu kết luận: 01 chiếc mô tô, BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, sơn màu đỏ - đen mua từ năm 2019 có giá trị 33.600.000đ (ba mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng).

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 51/CT- VKS ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự:

Chấp nhận việc bị hại anh Lò Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường gì khác.

Chấp nhận việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Đ không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu đã trả lại chiếc xe mô tô BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER cho anh Lò Văn T.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U).

Tại phiên tòa, bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đơn xin xét xử vắng mặt. Xét việc vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa không trở ngại cho việc xét xử. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Ngày 05/02/2021 bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt một chiếc xe mô tô BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, có giá trị 33.600.000đ (ba mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng) của anh Lò Văn T (sinh năm 1993), đều trú tại: Bản Mòn, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Đơn trình báo của anh Lò Văn T, anh Lò Văn Đ; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp lập hồi 20 giờ 45 phút ngày 19/02/2021 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Kết luận định giá tài sản số: 38/KL- HĐĐG ngày 23/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Thuận Châu; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) tại Bản án số 102/2015/HSST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, dã bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe đối với bị cáo, đảm bảo biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 03 tiền án; ngày 20/7/2006 bị Ủy ban nhân dân thị xã Sơn la, tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 12 tháng (đã xóa tiền sự).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Chấp nhận việc bị hại anh Lò Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường gì khác.

Chấp nhận việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Đ không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường.

[7] Đối với người đàn ông tên Tuấn, bị cáo khai nhà ở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La là người đã đổi một số phụ tùng, bộ phận của chiếc xe mô tô BKS: 26B2 - 370.03 do bị cáo chiếm đoạt tại khu vực xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra xác định Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) không biết họ tên, địa chỉ của Tuấn, do vậy không có căn cứ để xử lý.

[8] Vật chứng vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, sơn màu đỏ - đen. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Lò Văn T. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe cho anh Lò Văn T là có căn cứ, cần chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) 36 (ba mươi sáu) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam 48 (bốn mươi tám) ngày (từ ngày 19/02/2021 đến ngày 07/4/2021). Bị cáo còn phải chấp hành tiếp 34 (ba mươi tư) tháng 12 (mười hai) ngày tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự:

Chấp nhận việc bị hại anh Lò Văn T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường gì khác.

Chấp nhận việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Đ không có yêu cầu Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) bồi thường.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu đã trả lại chiếc xe mô tô BKS: 26B2 - 370.03, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu sơn đỏ - đen cho anh Lò Văn T.

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Cà Văn V (tên gọi khác: Cà Văn U) được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2021/HSST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản 

Số hiệu:65/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về