Bản án 65/2021/HS-ST ngày 14/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 65/2021/HS-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2021 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê Xuân H, sinh ngày: 20/01/1981, tại thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: khu 6, phường L, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lê Văn Nh và bà Lê Thị M; có vợ Nguyễn Thị N và 02 con; tiền án: không; tiền sự: (1) ngày 02/11/2018, Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng, chấp hành xong 12/11/2020; (2) ngày 20/6/2016 UBND phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, thời hạn 04 tháng, chấp hành xong ngày 20/10/2016; (3) ngày 29/3/2016, Công an phường Ngọc Trạo, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành; nhân thân: (1) ngày 16/6/2011, Toà án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 14/5/2013; (2) ngày 12/01/2016, Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; (3) ngày 13/01/2016, Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Cảnh cáo về hành vi “mua số lô, số đề trái phép”; (4) ngày 21/01/2017, Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn xử phạt Cảnh cáo về hành vi “mua số đề trái phép”; bị tạm giữ từ ngày 18/4/2021 đến ngày 24/4/2021 chuyển tạm giam đến nay. (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Vũ Ngọc Hùng – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Ninh Bình. (có mặt)

- Người làm chứng: ông Phạm Ngọc H1; (vắng mặt)

- Người chứng kiến: ông Hoàng Long Gi. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 20 phút, ngày 18/4/2021, tại đường Ngô Thỳ Sỹ, thuộc tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp, tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp phát hiện một người đàn ông ngồi trên xe mô tô BKS 36F5-018.84 đỗ ở lề đường bên phải, theo hướng từ quốc lộ 1A đi vào; tổ công tác yêu cầu kiểm tra. Người đàn ông này chấp hành và khai tên Lê Xuân H, đồng thời Hồng lấy từ trong túi quần bên phải đang mặc trên người ra 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận bên trong có 01 gói ma túy H vừa mua được để sử dụng. Tổ công tác kiểm tra bên trong bao thuốc có 05 điếu thuốc lá và 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng đục. Tổ công tác tiến hành thu giữ, lập biên bản và đưa H cùng tang vật về trụ sở Công an phường Nam Sơn làm việc. Ngoài ra, còn thu giữ của Lê Xuân H 01 xe mô tô BKS 36F5- 018.84; 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, bên trong có lắp 01 sim Viettel số thuê bao 0979.524.923.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng đục trong gói giấy nhỏ thu giữ của Lê Xuân H và kí hiệu M gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 322/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“Mẫu chất bột dạng cục màu trắng đục gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1288 gam, là ma túy lọai Heroine. Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 24 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Lê Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Xuân H và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lê Xuân H từ 22 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ 18/4/2021.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ các vật chứng, bao gồm: 01 phong bì giấy dán kiens, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 mảnh giấy màu trắng, KT (5x5,3) cm;

01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Lê Xuân H; 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 05 điếu thuốc lá Thăng Long; 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 322/KLGĐ- PC09-MT, vụ Lê Xuân H, SNv 1981, trú tại phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; xảy ra ngày 18/4/2021 tại tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm M=0,0717 gam là ma túy, loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 vỏ phong bì giấy cắt một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại thu giữ của Lê Xuân H;

+ Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô BKS 36F5-018.84 đã cũ, số khung RLHJC5214CY029490, số máy JC52E-4035209.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình với diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định bản thân bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khi quyết định hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo ở mức án phù hợp để bảo đảm tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô BKS 36F5-018.84.

Người làm chứng ông Phạm Ngọc H1 trình bày: ngày 18/4/2021, ông thấy Lê Xuân H cất giữ 01 bao thuốc lá, bên trong có 01 gói giấy nhỏ Hồng khai nhận là ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Người chứng kiến ông Hoàng Long Gi trình bày: ngày 18/4/2021, ông được Công an mời chứng kiến việc kiểm tra đối với Lê Xuân H, diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã nêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 18/4/2021, Biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại, Kết luận giám định số 322/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các tang vật, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở kết luận: ngày 18/4/2021, tại đường Ngô Thì Sỹ, thuộc tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp, bị cáo Lê Xuân H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1288 gam ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân như đã nêu trên là trái phép, là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Xuân H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

[5] Về nhân thân: bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn; Công an phường Ngọc Trạo, thị xã Bỉm Sơn; UBND phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc, giáo dục tại xã phường. Bị cáo đã từng bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” [6] Về hình phạt: xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cần phải có hình phạt thích đáng đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, có như vậy mới có tác dụng giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và cho xã hội, đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01 sim Viettel có số thuê bao là 0979.524.923 là tài sản hợp pháp của bị cáo H, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo H, bà Lê Thị M là mẹ đã nhận lại theo ủy quyền là đúng quy định của pháp luật.

Đối với các vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp quản lý gồm: 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 mảnh giấy màu trắng, KT (5x5,3) cm; 01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Lê Xuân H; 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 05 điếu thuốc lá Thăng Long; 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 322/KLGĐ-PC09-MT, vụ Lê Xuân H, SNv 1981, trú tại phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; xảy ra ngày 18/4/2021 tại tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm M=0,0717 gam là ma túy, loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 vỏ phong bì giấy cắt một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại thu giữ của Lê Xuân H. Trong đó, số ma túy là vật cấm tàng trữ, các vật chứng còn lại không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô BKS 36F5-018.84 đã cũ, số khung RLHJC5214CY029490, số máy JC52E-4035209 là tài sản hợp pháp của bị cáo nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo.

[9] Về nguồn gốc ma túy: bị cáo Lê Xuân H khai nhận mua của một nam thanh niên không quen biết tại tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp. Do đó không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[10] Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Xuân H.

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Tuyên bố: bị cáo Lê Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân H 23 (hai mươi ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18/4/2021.

2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 mảnh giấy màu trắng, KT (5x5,3) cm; 01 vỏ phong bì giấy đã cắt một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Lê Xuân H;

- 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 05 điếu thuốc lá Thăng Long;

- 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 322/KLGĐ-PC09-MT, vụ Lê Xuân H, SNv 1981, trú tại phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; xảy ra ngày 18/4/2021 tại tổ 21, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm M=0,0717 gam là ma túy, loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong;

- 01 vỏ phong bì giấy cắt một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại thu giữ của Lê Xuân H;

+ Trả lại cho bị cáo Lê Xuân H: 01 xe mô tô BKS 36F5-018.84 đã cũ, số khung RLHJC5214CY029490, số máy JC52E-4035209.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/8/2021 giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

3. Về án phí: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Xuân H.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/9/2021.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2021/HS-ST ngày 14/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về