Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 07/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH – TỈNH VĨNH L

BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 07 tháng 06 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh L đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2021/TLST- HNGĐ, ngày 02 tháng 04 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/05/2021 giữa các đương sự:

- Nguyê đơn: Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1991 (xin vắng) Địa chỉ: ấp TL A1, xã TL, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang

- Bị đơn: Anh Võ Quốc V, sinh năm 1991 (xin vắng) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh L

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/04/2021 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T trình bày:

Vào năm 2012 qua quen biết chị và anh Võ quốc V có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang ngày 7/5/2012. Sau khi kết hôn thì vợ chồng tiếp tục đi làm ở Thành Phố Hồ Chí Minh cho đến khi sinh con đầu lòng thì chị về bên gia đình chị ở Tân L, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang sinh sống cho đến nay, không có về bên gia đình chồng. Thời gian vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị và anh V sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Từ khi ly thân đến nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt hơn, vợ chồng không hàn gắn được chuyện gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Quốc V.

Về con chung: Có 02 con chung là Võ Hoài N, sinh ngày 9/4/2015, Võ Hoàng L, sinh ngày 02/4/2019, khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi 02 con và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con là 900.000đ/tháng/cháu cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Võ Quốc V vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ .

- Ngày 21/05/2021, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T có đơn xin vắng mặt, chị có ý kiến trình bày: Chị yêu cầu xin ly hôn với anh Võ quốc V. Về con chung: Có 02 con chung là Võ Hoài N, sinh ngày 9/4/2015, Võ Hoàng L, sinh ngày 02/4/2019, khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi 02 con và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con là 900.000đ/tháng/cháu cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ngày 28/5/2021, bị đơn anh Võ Quốc V có đơn xin ly hôn vắng mặt, anh V có ý kiến trình bày: Anh đồng ý ly hôn với chị T, về vấn đề con chung: anh đồng ý để chị T nuôi hai con chung, về cấp dưỡng: anh chỉ có khả năng cấp dưỡng từ 700-900 ngàn/bé/tháng, vì lương công nhân cũng chỉ có 7 triệu đồng/tháng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về pháp luật tố tụng:

- Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về việc ly hôn, nuôi con. Bị đơn anh Võ Quốc V cư trú tại xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh L. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh L.

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T có đơn xin xét xử vắng mặt, Bị đơn anh Võ Quốc V xin vắng mặt phiên tòa ngày 7/06/2021. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt” và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt”. Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2012 qua quen biết chị và anh Võ quốc V có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang ngày 7/5/2012 nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị Nguyễn Thị Kim T trình bày: Sau khi kết hôn thì vợ chồng tiếp tục đi làm ở Thành Phố Hồ chí Minh cho đến khi sinh con đầu lòng thì chị về bên gia đình chị ở TL, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang sinh sống cho đến nay, không có về bên gia đình chồng. Thời gian vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau. Chị và anh V sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Từ khi ly thân đến nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt hơn, vợ chồng không hàn gắn được chuyện gia đình, không có tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hiện tại vợ chồng chị T và anh V đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị T yêu cầu ly hôn, anh V cũng đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị T và anh V là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn…”.

[2]. Về con chung: Chị T và anh V có 02 con chung là Võ Hoài N, sinh ngày 9/4/2015, Võ Hoàng L, sinh ngày 02/4/2019. Chị T yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, mỗi cháu là 900.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con…”.

Anh V có ý kiến trình bày là do đi làm xa nên đồng ý chị T sẽ trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, hiện con đang sống chung với chị T. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của các cháu, giao 02 cháu là Võ Hoài N, Võ Hoàng L cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

Anh Võ Quốc V được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử xét thấy tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Chị T yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, mỗi cháu là 900.000đ/tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi và anh V đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu là 700-900 ngàn/cháu/tháng, do lương anh chỉ có 7.000.000đ/tháng. Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo về điều kiện sinh hoạt, học tập của các con và mức lương mà anh V cung cấp nên mức cấp dưỡng nuôi con là 900.000đ/tháng/cháu là phù hợp cho khả năng của anh V và đúng theo yêu cầu của chị T nên được chấp nhận, thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh V chưa có yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Căn cứ khoản 4, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 27 Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, khoản 1 Điều 273, khoản 2 Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 55, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim T và anh Võ Quốc V.

[2]. Về con chung: Giao 02 con chung là Võ Hoài N, sinh ngày 9/4/2015, Võ Hoàng L, sinh ngày 02/4/2019 cho chị Nguyễn Thị Kim T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Võ Quốc V được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Võ Quốc V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng, mỗi cháu là 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng), số tiền 02 cháu mỗi tháng là 1.800.000đ (Một triệu, tám trăm nghìn đồng) để nuôi cháu 02 Võ Hoài N, Võ Hoàng L, thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh V không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Kim T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0010974 ngày 02/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh L. Chị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Võ Quốc V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 07/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:65/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về