Bản án 65/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lữ Thị H, tên gọi khác: không;

Sinh ngày 29 tháng 10 năm 1980 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; Trú tại: Xóm Đ, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Lữ Văn A và bà Cao Thị Ch (đã chết); Chồng: Ngân Văn S (đã chết), con: 01 người; Tiền án, tiền sự: không;

Tm giữ, tạm giam: Từ ngày 03 tháng 8 năm 2020 đến nay.

(Có mặt)

 + Người bị hại:

1. Bà Lo Thị Ng. Sinh năm 1960

Nơi cư trú: Bản Ph, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

2. Chị Vi Thị O. Sinh năm 1989

Nơi cư trú: Bản Ph, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 9 giờ ngày 29/7/2020, bị cáo Lữ Thị H đi xe đạp điện đến nhà bà Lo Thị Ng ở bản Ph, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An chơi. Khi đến nhà bà Ng thì chỉ có cháu bà Ng là Lô Thị D đang chơi ở nhà (cháu D mắc bệnh, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi). Ngồi chờ một lúc thì H phát hiện thấy chiếc rương tôn để dưới gường nhà bà Ng nên H nảy sinh ý định trộm cắp. H đi vào nhà lấy chiếc rương tôn bỏ lên xe đạp điện rồi chở đến bờ suối đối diện Nhà máy nước thuộc khối 13, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An để lục lấy tài sản. Đến nơi, Hằng mở chiếc rương, kiểm tra bên trong thấy 02 sấp vải thổ cẩm; 02 chiếc áo ấm; 01 chiếc quần lụa; 01 bộ đồ nam; 01 túi da bên trong có 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 sổ tiết kiệm mang tên Vi Thị O; 01 ví da bên trong có số tiền 28.000.000,đ; 01 túi vải nhỏ bên trong có 01 dây chuyền vàng khối lượng 03 chỉ, 01 nhẫn vàng có khối lượng 01 chỉ, 02 chiếc khuyên tai bằng vàng có khối lượng 01 chỉ. H lấy toàn bộ tài sản là túi da, ví da bên trong có tiền, vàng và để lại các tài sản còn lại trong rương đặt tại bờ suối. Sau đó H đi xe khách ra H và bán số vàng trên cho một cửa hàng vàng bạc được số tiền 26.150.000,đ. Số tiền bán vàng này và số tiền trộm cắp 28.000.000,đ H đã tiêu sài cá nhân hết. Đến ngày 03/8/2020 H đến Công an huyện Quỳ Hợp đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-KLĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản Uỷ ban nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An kết luận: 01 dây chuyền vàng có khối lượng 03 chỉ, trị giá 16.500.000,đ; 01 nhẫn vàng có khối lượng 01 chỉ, trị giá 5.500.000,đ; 02 chiếc khuyên tai bằng vàng có khối lượng 01 chỉ, trị giá 5.500.000,đ. Các tài sản trên được xác định là tài sản của chị Vi Thị O, có tổng trị giá là 27.500.000,đ Bản kết luận định giá tài sản số 43/KL- KLĐG ngày 01/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An kết luận: 01 chiếc rương bằng tôn trị giá 10.000,đ; 01 túi da trị giá 5.000,đ; 01 ví da trị giá 5.000,đ; 02 sấp vải thổ cẩm trị giá 1.100.000,đ; 02 chiếc áo ấm trị giá 20.000,đ; 01 chiếc quần lụa trị giá 10.000,đ; 01 bộ đồ nam trị giá 10.000,đ.

Các tài sản trên được xác định là tài sản của bà Lo Thị Ng, có tổng trị giá là 1.160.000,đ.

Như vật tổng trị giá tài sản mà H đã trộm cắp là 56.660.000,đ (năm mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 63/CT-VKS-HS ngày 07/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo Lữ Thị H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt Lữ Thị H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được trả lại cho bà Lo Thị Ng. Nay bà Ng không yêu cầu gì với các tài sản khác mà bị cáo H trộm cắp, cũng không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường nên đề nghị không xem xét.

01 sổ tiết kiệm đã được trả lại cho chị Vi Thị O. Nay chị O yêu cầu bị cáo H phải bồi thường trị giá 05 chỉ vàng là 27.500.000,đ và trả lại số tiền 28.000.000,đ, tổng cộng là 55.500.000,đ. Do đó buộc bị cáo H phải bồi thường cho chị O trị giá tài sản là 55.500.000,đ.

Bị cáo H thuộc hộ nghèo, dó đó miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo Lữ Thị H nói lời sau cùng tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về Tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội:

Căn cứ vào Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 03/8/2020; Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 30/7/2020; Biên bản định giá tài sản, bản kết luận định giá tài sản ngày 10/8/2020, ngày 01/9/2020 và các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã thu thập được tại hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 29/7/2020 Lữ Thị H đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bà Lo Thị Ng và chị Vi Thị O gồm: 01 dây chuyền vàng có khối lượng 03 chỉ, trị giá 16.500.000,đ; 01 nhẫn vàng có khối lượng 01 chỉ, trị giá 5.500.000,đ; 02 chiếc khuyên tai bằng vàng có khối lượng 01 chỉ, trị giá 5.500.000,đ; 01 chiếc rương bằng tôn trị giá 10.000,đ; 01 túi da trị giá 5.000,đ; 01 ví da trị giá 5.000,đ; 02 sấp vải thổ cẩm trị giá 1.100.000,đ; 02 chiếc áo ấm trị giá 20.000,đ; 01 chiếc quần lụa trị giá 10.000,đ; 01 bộ đồ nam trị giá 10.000,đ. Tổng trị giá các tài sản bị cáo H trộm cắp là 56.660.000,đ (năm mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Hành vi trên của Lữ Thị H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015

[3] Xét tính chất vụ án; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo Lữ Thị H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Căn cứ vào trị giá tài sản bị cáo trộm cắp, cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS để xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo ra Công an huyện Quỳ Hợp đầu thú; Bản thân bị cáo đã có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đó là các tình tiết cần áp dụng để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 (cho 2 tình tiết) Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Vi Thị O đã nhận lại 01 sổ tiết kiệm. Nay chị O yêu cầu bị cáo H phải bồi thường trị giá 05 chỉ vàng là 27.500.000,đ và trả lại số tiền 28.000.000, tổng cộng là 55.500.000,đ. Tại phiên tòa, bị cáo H nhất trí bồi thường cho chị O số tiền 55.500.000,đ. Xét thấy hai bên thoả thuận bồi thường hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó căn cứ vào Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự 2015, công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo H và chị O.

Bà Lo Thị Ng đã nhận lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có yêu cầu gì đối với các tài sản là vải, quần áo, túi, ví da bị trộm cắp. Nay bà Ng không không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy gia đình bị cáo là hộ nghèo, bản thân bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập và tài sản giá trị. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Lữ Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lữ Thị H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 03/8/2020.

2. Trách nhiệm dân sự:

Căn cứ các Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự, Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Lữ Thị H và chị Vi Thị O. Bị cáo Lữ Thị H chịu trách nhiệm bồi thường cho chị Vi Thị O tổng số tiền là 55.500.000,đ (năm mươi lăm triệu năm trăm nghìn đồng).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 điều 12, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm đối với bị cáo Lữ Thị H.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, những người bị hại. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về