Bản án 65/2020/HSST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 65/2020/HSST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2020/HSST, ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2020 /QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc Tr, sinh năm 1980.

HKTT: Đường Đ, phường T, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp:

Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc Tr (Đã chết) và Bùi Thị D, sinh năm 1956; Có vợ là Phạm Thị Hồng Th (Đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2005; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 03/12/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Môi giới mại dâm”; Ngày 22/3/2010 bị Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Ngày 03/11/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp với hình phạt 03 năm tù của bản án số 197/2007 ngày 03/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thành 06 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/5/2015.

Bị bắt tạm giam ngày 01/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 07/8/2020, tổ công tác Công an phường L, thành phố H làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực đường Mai An Tiêm, trước cửa Công viên Hội An thuộc phường L, thành phố H phát hiện Nguyễn Ngọc Tr và Lê Kiều Th có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện, thu giữ của Trung 01gói giấy màu trắng, bên trong chứa bột màu trắng, thu giữ của Thương 01 tờ tiền mệnh giá 1.000đ, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà. Đấu tranh sơ bộ, Tr và Th khai nhận đó là ma túy do Tr và Th mua để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc Tr và Lê Kiều Th khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 10h30 phút ngày 07/8/2020, Tr đến nhà Th rủ đi mua ma túy để sử dụng. Tr góp 50.000đ còn Th góp 150.000đ. Cả hai đi đến cổng Công viên Hội An. Th đứng đợi còn Tr đi một mình đến khu vực cầu Mới, phường Đ, thành phố H mua của một người đàn ông không quen biết một gói ma túy với giá 200.000đ. Sau khi mua được số ma túy trên, Tr quay về cổng Công viên Hội An gặp Th. Th đã đưa tờ tiền 1.000đ cho Tr san đôi số ma túy vừa mua được và đưa cho Th một nửa. Cả hai đang tìm nơi sử dụng thì bị tổ tuần tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 2165/MT-PC09 ngày 12/8/2002 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận:

- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 thu giữa của Trung gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,082g, loại heroine.

- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M2 thu giữ của Thương gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,068g, loại heroine.

Đối với Lê Kiều Th, hành vi tàng trữ 0,068g heroine chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Tr, do Tr khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Tại cáo trạng số 339/CT-VKS, ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Nguyễn Ngọc Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Ngọc Tr thừa nhận: Vào khoảng 11giờ ngày 07/8/2020, tại đường M, phường L, thành phố H; Tổ công tác Công an phường L đã bắt quả tang Nguyễn Ngọc Tr có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ của Tr là ma túy có tổng trọng lượng 0,082g loại heroine. Ngoài ra Tr còn phải chịu trách nhiệm đối với khối lượng ma túy thu giữ của Lê Kiều Th là 0,068g, loại heroine.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Ngọc Tr phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Do nghiện ma túy nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của bị cáo, xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Tr 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/9/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định.

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 47/THA ngày 25/11/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H với Công an thành phố H.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14. Bị cáo Nguyễn Ngọc Tr phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HSST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về