Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 

BẢN ÁN 65/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 502/2019/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2020/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim T, sinh năm: 1988 (Có mặt).

Địa chỉ: Khu phố XR, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm: 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố LS, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/8/2019 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Bà Trần Thị Kim T trình bày:

Bà T xây dựng gia đình với ông Lê Văn T vào năm 2012 có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới có thời gian tìm hiểu nhau. Sau khi kết hôn bà T và ông T chung sống tại khu phố LS, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Cuộc sống chung hạnh phúc đến năm 201 5 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T và ông T bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp nên thường phát sinh cãi vã. Ngoài ra ông T còn cờ bạc, không lo làm ăn và không quan tâm đến vợ con. Bà T đã khuyên bảo ông T nhiều lần nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi mà ngày càng trầm trọng hơn. Bà T và ông T đã ly thân từ năm 2015 đến nay, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Trần Thanh M, sinh ngày 19/5/2013 và Lê Trần Thanh T, sinh ngày 19/5/2013, hiện các con chung đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung và T nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Lê Văn T đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông T đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình T, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật. Tuy nhiên vụ án còn để kéo dài quá thời hạn xét xử nhưng không có quyết định gia hạn là còn thiếu sót nhưng không gây ảnh hưởng lớn đến nội dung vụ án đề nghị Tòa án rút kinh nghiệm.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị Kim T yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Lê Văn T, đây là quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Lê Văn T có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng, ông Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt ông T là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T xây dựng gia đình vào năm 2012 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 146, quyển số 01/2012 ngày 25/9/2012 tại UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà T và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bà T và ông T bất đồng quan điểm nên thường phát sinh cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung ngoài ra ông T còn cờ bạc, không chăm lo cho vợ con. Từ năm 2015 đến nay bà T và ông T ly thân. Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình thì “vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau…”:

Qua xác minh thực tế tại địa phương nơi bà T và ông T cư trú, thể hiện giữa bà T và ông T xảy ra mâu thuẫn vì nguyên nhân gì địa phương không nắm được, hiện nay ông T không còn chung sống với bà T. Xét yêu cầu của bà T cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà T và ông T phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng bà T và ông T đã ly thân trong một thời gian dài từ năm 2015 đến nay. Sau khi bà T gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông T vắng mặt không lý do, thể hiện không có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà T và ông T thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 19 và Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông T.

[3] Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Trần Thanh M, sinh ngày 19/5/2013 và Lê Trần Thanh T, sinh ngày 19/5/2013, hiện các con chung đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và T nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy, từ khi bà T nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay ông T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà T có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Xét nguyện vọng của cháu T và cháu M cho thấy các cháu có nguyện vọng ở với bà T nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung, giao cháu T và cháu M cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, 228, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Kim T đối với ông Lê Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Kim T được ly hôn với ông Lê Văn T.

2. Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Trần Thanh M, sinh ngày 19/5/2013 và Lê Trần Thanh T, sinh ngày 19/5/2013. Bà Trần Thị Kim T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Ông Lê Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lê Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Trần Thị Kim T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000417 ngày 27/8/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, T nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:65/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về