Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 65/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18/9/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 164/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2020/QĐXXST-DS ngày 12/8/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 83/2020/QĐST-DS ngày 28/8/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn D, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện cư trú: Thôn L, xã C, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Chu Văn H, sinh năm 1977 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị kết hôn với anh Chu Văn H ngày 15/10/2008, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 5/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Tháng 02/2020 chị bỏ về mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ với nhau từ đó. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị xin được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Chu Văn Bảo C, sinh ngày 18/8/2011 và Chu Thị Bảo C1, sinh ngày 20/12/2014. Hiện hai con đang ở cùng anh H, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị xin được nuôi cháu C, còn để anh Huy nuôi cháu C1, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Chu Văn H trình bày: Mặc dù đã được Toà án thông báo thụ lý, giao, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc.

Tại phiên toà hôm nay chị L có mặt giữ nguyên yêu cầu trên và trình bày thêm; do anh H sử dụng ma túy đá nên lái xe ô tô thường sảy ra tai nạn, va quệt đâm xe, chị và bố mẹ anh H cùng gia đình khuyên ngăn, nhưng chỉ được mấy hôm, sau đó anh H lại tiếp tục chơi bời. Anh H có mặt xác định chị L trình bày về thời gian kết hôn là đúng, thời gian sảy ra mâu thuẫn là đúng, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh có chơi bời đàn đúm cờ, bạc với anh em; anh không sử dụng ma túy đá; tháng 02/2020 chị L bỏ về mẹ đẻ ở, anh có lên đón gọi và tát chị L mấy cái, nhưng chị L vẫn không quay về chung sống cùng anh. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên anh không đồng ý ly hôn chị L.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, chị L trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án anh H không phối kết hợp để làm việc, không khai báo; Tại phiên tòa hôm nay anh H có mặt. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị L được ly hôn anh H; Về con chung: Giao chị L nuôi cháu Chu Văn Bảo C, giao anh H nuôi cháu Chu Thị Bảo C1; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Cả chị L, anh H đều không đề nghị giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989, Nơi ĐKHKTT: Thôn D, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Hiện cư trú: Thôn L, xã C, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; khởi kiện xin ly hôn anh Chu Văn H, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị L xin được ly hôn anh H, đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị L, anh H đều có mặt. Nên HĐXX áp dụng Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.

[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L kết hôn với anh Chu Văn H ngày 15/10/2008, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến đánh cãi chửi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Tháng 02/2020 chị L bỏ về mẹ đẻ ở, anh H có đón gọi nhưng chị L không quay về chung sống, vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ với nhau từ đó. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị L thiết tha xin được ly hôn, phía anh H mặc dù đã được Toà án thông báo thụ lý, giao, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc, tại phiên tòa hôm nay, anh Huy có mặt, không đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng xin được ly hôn của chị L là phù hợp quy định của pháp luật. Do vậy cần xử cho chị L được ly hôn anh H để giải phóng cho cả hai bên, xét là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị L và anh H sinh được 2 con chung là Chu Văn Bảo C, sinh ngày 18/8/2011 và Chu Thị Bảo C, sinh ngày 20/12/2014. Hiện hai con đang ở cùng anh H, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị L xin nuôi cháu C, anh H xin được nuôi cả hai con; đều không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. HĐXX xét thấy, các bên đều có điều kiện nuôi con như nhau, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trẻ, phù hợp với nguyện vọng của con, cần giao chị L nuôi con là Chu Văn Bảo C, còn anh H nuôi con là Chu Thị Bảo C1, các bên được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn. Xét là phù hợp điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, chị L không đề nghị Tòa án giải quyết; tại phiên tòa hôm nay chị L, anh H đều có mặt không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 227; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Chu Văn H.

2/ Về con chung: Xử giao chị Nguyễn Thị L nuôi con chung là Chu Văn Bảo C, sinh ngày 18/8/2011; anh Chu Văn H nuôi con chung là Chu Thị Bảo C1, sinh ngày 20/12/2014; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; chị L, anh H được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở chị L, anh H thực hiện quyền này.

3/ Về tài sản: Chị Nguyễn Thị L, anh Chu Văn H đều không đề nghị Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002330 ngày 29/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Báo cho các đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử sơ thẩm công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:65/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về