Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 13/10/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 65/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/10/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 13 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 250/2020/TLST-HNGĐ ngày 26/8/2020 về việc “Xin ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 168/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28/9/2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Bà Đỗ Phương T, sinh năm: 1985 (Có mặt). Địa chỉ: KV t, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

* Bị đơn : Ông Nguyễn Thành N, sinh năm: 1984 (Xin giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: khu vực H, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Đỗ Phương T trình bày và yêu cầu : Bà và ông N tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, quận C vào ngày 05/3/2008. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm ra tiếng nói chung dẫn đến thường xuyên cự cãi, không thể giải quyết. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thành N.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống bà với ông N có với nhau 01 (một) con chung là Nguyễn Đỗ G (nữ) sinh ngày 31/3/2010, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hân cho đến khi trưởng thành, bà không yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà và ông N tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Nguyễn Thành N trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án tại bản tự khai ngày 14/9/2020 ông N có ý kiến thống nhất với phần trình bày của bà T về quan hệ hôn nhân, tài sản chung, nợ chung và con chung như trên là đúng. Ông và bà T tự nguyện đi đến hôn nhân vào năm 2008 có đăng ký kết hôn đúng theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chung sống thì vợ chồng mâu thuẫn và ly thân với nhau từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Nay trước yêu cầu ly hôn của bà T, ông có ý kiến:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất với yêu cầu ly hôn của bà T.

- Về con chung: Thống nhất giao con chung là Nguyễn Đỗ G (nữ) sinh ngày 31/3/2010 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, ông không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông và bà T sẽ tự thỏa thuận với nhau.

- Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Có mặt tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Đỗ Phương T vẫn giữ phần trình bày và yêu cầu của bà như trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết : Bà Đỗ Phương T và ông Nguyễn Thành N tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn đúng theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân phường B, quận C cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 21 ngày 05/3/2008, nên hôn nhân của ông, bà là hợp pháp được pháp luật bảo vệ và điều chỉnh khi có yêu cầu.

Chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, không đạt được hạnh phúc như mong muốn nên bà T có đơn yêu cầu xin ly hôn với ông N, quan hệ tranh chấp được xác định là xin ly hôn, vụ việc được Tòa án nhân dân quận C thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng : Đối với bị đơn ông Nguyễn Thành N có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, xét ý kiến này của ông N là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Xét yêu cầu của các đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân : Hôn nhân của bà T và ông N là hợp pháp trên cơ sở tự nguyện; trong thời gian chung sống thì tình cảm vợ chồng của bà T và ông N có sự rạn nứt, mâu thuẫn với nhau dẫn đến ly thân từ tháng 5 năm 2019 đến nay, giữa hai người không tìm ra cách giải quyết mâu thuẫn, không hàn gắn tiếp tục cuộc sống hôn nhân đã được xây dựng.

Xét thấy để xây dựng hạnh phúc của gia đình, cũng như cuộc sống của vợ chồng phải được vun đắp từ tình cảm thật sự xuất phát từ bản thân của cả người vợ và người chồng, sự tự nguyện cả hai người đồng thời cùng duy trì, giữ gìn hạnh phúc đã xây dựng, cùng chăm lo cho nhau và nuôi dạy con chung, nhưng bà T và ông N không làm được điều này. Bà T cho rằng không còn tình cảm, không thể hàn gắn và kiên quyết được ly hôn với ông N, nếu gán ép, duy trì sẽ không mang lại hạnh phúc. Trong quá trình giải quyết vụ án, tại bản tự khai ngày 14/9/2020 bị đơn ông N có ý kiến trong thời gian chung sống vợ chồng mâu thuẫn, không thể hàn gắn với nhau và thống nhất với yêu cầu ly hôn của bà T. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa bà T và ông N không đạt được, đời sống chung thực tế không tồn tại, mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa bà T và ông N không thể hàn gắn được với nhau, nếu gán ép, duy trì sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T, cho bà T được ly hôn với ông N là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật.

- Về con chung : Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Đỗ G (nữ) sinh ngày 31/3/2010 hiện đang sống với bà T, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu G cho đến khi trưởng thành. Ông N có ý kiến là thống nhất giao cháu Hân cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Xét thấy đây là ý kiến thỏa thuận thống nhất và phù hợp với quy định của pháp luật của các đương sự, hơn nữa cháu G là nữ nên giao cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp, và tại bản ý kiến ngày 21/9/2020 cháu G có ý kiến là trường hợp cha mẹ ly hôn với nhau thì muốn sống với mẹ. Xét thấy, để đảm bảo ổn định cuộc sống, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, môi trường sống, học tập, do đó nghĩ nên giao cháu G cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp và có căn cứ.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Bà T có ý kiến là không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, mặc dù đã được giải thích về vấn đề cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con chung chứ không phải của người nuôi con nhưng bà T vẫn không yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; xét đây là sự tự nguyện của bà T, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên chấp nhận.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông N theo quy định pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung : Bà T và ông N khai thống nhất là tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết. Trường hợp sau này có ai tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

- Về nợ chung : Các đương sự khai thống nhất là trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ ai hết, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết, sau này có ai khởi kiện tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ án khác.

[4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm : Nguyên đơn bà Đỗ Phương T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228 các Điều 235, 266 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân : Cho bà Đỗ Phương T được ly hôn với ông Nguyễn Thành N.

2. Về con chung : Có 01 (một) là Nguyễn Đỗ G (nữ) sinh ngày 31/3/2010; giao cháu G cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, bà T không yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông Nguyễn Thành N theo quy định pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung : Bà T và ông N khai thống nhất là tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết. Trường hợp sau này có ai tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

4. Về nợ chung : Các đương sự khai thống nhất là trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ ai hết, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết, sau này có ai khởi kiện tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm : Nguyên đơn bà Đỗ Phương T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 006318 ngày 24 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố Cần Thơ; bà T đã nộp xong án phí.

6. Về quyền kháng cáo Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn bà T có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đối với bị đơn ông N vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai theo quy định để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 13/10/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:65/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về