Bản án 65/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn,tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:63/2019/TLST- HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xửsố: 64/2019/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo: Lý Văn U, sinh năm 1993 tại Lạng Sơn;

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn C (đã chết) và bà Hoàng Thị P; vợ; con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không.; nhân thân: Bản án số 50/2010/HSST ngày 23/6/2010 của Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội Lưu hành tiền giả, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày

15/01/2019, tạm giam từ ngày 18/01/2019 đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn K, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 45 phút ngày 15/01/2019, tại ngã ba đường T và đường N, phường C, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố L bắt quả tang Lý Văn Ucó hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 01 (một) gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng, tạm giữ 100.000đ, 01 xe mô tô hiệu HALIM màu nâu, BKS 12F6-94xx và 01 máy điện thoại di động hiệu JINOKE màu bạc kèm theo sim.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Lý Văn U khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 15/01/2019, Lý Văn U điều khiển xe mô tô BKS 12F6- 94xx từ nhà ra khu vực cổng chợ Đ, phường V, thành phố L gặp một người đàn ông đi xe ôm và nhờ mua hộ một gói ma túy Heroine với giá 100.000đ. Người đàn ông đồng ý và đi lấy ma túy cho Lý Văn U. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông quay lại đưa cho Lý Văn U 01 gói nhỏ màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, bọc ngoài là một lớp giấy màu xanh. Lý Văn U cất gói ma túy vừamua được vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi đến khu vực đường V, phường C, thành phố L để sử dụng. Khi đi đến ngã bađường T và đường N, phường C, Lý Văn U dừng xe để cài lại quai mũ bảo hiểm thì bị lực lượng Công an kiểm tra. Lúc này tay trái Lý Văn U đang để trong túi áo khoác đang mặc, tay phải cầm tay lái điều khiển xe. Do lo sợ bị phát hiện Lý Văn U rút tay từ trong túi áo khoác bên trái ra làm rơi gói ma túy vừa mua được xuống đất ngay chân Lý Văn U đang đứng. Cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản và đưa Lý Văn U cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Tại kết luận giám định số 89/KL-PC09 ngày 18/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Lý Văn U gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,104 gam.

Tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 26 tháng 3 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Lý Văn U về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn U khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lý Văn U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Lý Văn U từ 18 đến 20 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản để đảm bảo thi hành án.

Xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 100.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu JINOKE, số imei: 8866515022469324, kèm 01 sim Vinaphone, đã qua sử dụng do không liên quan đến việc phạm tội. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo Lý Văn U tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Hồi 14 giờ 45 phút ngày 15/01/2019, tại ngã ba đường T và đường N, phường C, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố L bắt quả tang Lý Văn U có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,104 gam. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lý Văn U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 67/CT-VKS  ngày 26 tháng 3 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lý Văn U về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật.

 [4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với  bị cáo.

 [5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên năm 2010 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội Lưu hành tiền giả, đã được xóa án tích. Nhưng không lấy đó làm bài học mà lại phạm tội.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

 [7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân, cần xét xử bị cáo mức án tương xứng để có tác dụng giáo dục bị cáo và răng đe, phòng ngừa chung. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 01/3/2019 xác định Lý Văn U không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, trả lại cho bị cáo Lý Văn U số tiền 100.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu JINOKE, số imei: 8866515022469324, kèm 01 sim Vinaphone, đã qua sử dụng do không liên quan đến việc phạm tội. Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

 [10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [11] Đối với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [12] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Văn U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lý Văn U 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 15/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Lý Văn U số tiền 100.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu JINOKE, số imei: 8866515022469324, kèm 01 (một) sim Vinaphone, đã qua sử dụng do không liên quan đến việc phạm tội. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong.

 (Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 3 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Lý Văn U phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về