TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 371/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 255/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-11-2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thúy H, sinh năm 1991
Địa chỉ: Số A đường N, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1984
Địa chỉ: Tổ B (nay là tổ D), phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Chị H có mặt, anh C vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 12-8-2019, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 09-9-2019 các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Đặng Thị Thúy H trình bày:
Chị và anh Nguyễn Mạnh C sau thời gian tìm hiểu khoảng 03 tháng thì tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 16-02-2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến 1 tháng 3 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C có những mối quan hệ lăng nhăng, không quan tâm đến vợ con và vào ngày 06 tháng 6 năm 2019 anh C đã dùng túyp sắt đánh chị nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị và anh C đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Mạnh C.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Mạnh C có 03 con chung tên Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 22-6-2010, Nguyễn Quỳnh N1, sinh ngày 11-5-2013 và Nguyễn Phước L, sinh ngày 21-11-2016. Hiện nay, cháu N đang sống với gia đình chị, còn cháu N1 và L sống với gia đình anh C. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Mạnh C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị và anh C tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
2. Bị đơn anh Nguyễn Mạnh C không có văn bản trình bày ý kiến.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi Tòa án thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn chấp hành đúng quy định tại điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng quy định tại điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Mạnh C của chị Đặng Thị Thúy H.
+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 22-6-2010, Nguyễn Quỳnh N1, sinh ngày 11-5-2013 và Nguyễn Phước L, sinh ngày 21-11-2016 cho chị Đặng Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
+ Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
+ Về nợ chung: Không có nên không xem xét.
+ Về án phí: Chị Đặng Thị Thúy H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Mạnh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Thúy H và anh Nguyễn Mạnh C tự nguyện đăng ký kết hôn và được UBND phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 16-02-2012 nên hôn nhân của chị H và anh C là hợp pháp. Theo chị H trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C có những mối quan hệ lăng nhăng, không quan tâm đến vợ con và đánh đập chị nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị và anh C đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Tình cảm của chị với anh C không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã trầm trọng nên không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Mạnh C. Tại đơn xin xác nhận đề ngày 13-9-2019 của chị Đặng Thị Thúy H, Công an phường C, thành phố Q xác nhận: Ngày 07-6-2019 Công an phường có nhận đơn trình báo của chị Đặng Thị Thúy H trình báo về việc bị chồng đánh qua làm việc anh C khai nhận vợ chồng chỉ mâu thuẫn lời qua tiếng lại. Công an phường cho anh C kiểm điểm cam kết không tái phạm. Tại biên bản xác minh ngày 28-10-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Q thì tổ trưởng tổ B, phường C, thành phố Q cho biết về mâu thuẫn giữa chị H và anh C địa phương không biết vì chị H và anh C không báo. Về phía anh C, Tòa án đã làm đầy đủ các thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho anh C theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh C không có văn bản trả lời và cũng không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị H. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đặng Thị Thúy H về việc xin ly hôn anh Nguyễn Mạnh C.
[2.2] Về con chung: Chị Đặng Thị Thúy H và anh Nguyễn Mạnh C có 03 con chung tên Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 22-6-2010, Nguyễn Quỳnh N1, sinh ngày 11-5-2013 và Nguyễn Phước L, sinh ngày 21-11-2016. Hiện nay, cháu N đang sống với gia đình chị H, còn cháu N và L sống với gia đình anh C. Xét yêu cầu nuôi con của chị H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu Nguyễn Quỳnh N đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với mẹ. Hai cháu N1 và L đang sống với gia đình anh C, tuy nhiên anh C không có ý kiến gì về việc nuôi dưỡng các con. Hiện nay chị H làm quản lý cho dịch vụ Massage Karaoke H, thu nhập hàng tháng là 10.000.000 đồng chưa tính tiền thưởng nên đủ điều kiện nuôi 03 con chung. Do đó, giao 03 con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Thúy H không yêu cầu Tòa án giải quyết và anh Nguyễn Mạnh C không có văn bản trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.4] Về nợ chung: Chị Đặng Thị Thúy H trình bày không có, anh Nguyễn Mạnh C không có văn bản trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, được chấp nhận.
[4] Về án phí: Chị Đặng Thị Thúy H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, 235, 266, 271, 273 và Điều 278 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đặng Thị Thúy H và anh Nguyễn Mạnh C.
2. Về nuôi con chung: Giao các con chung tên Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 22-6-2010, Nguyễn Quỳnh N1, sinh ngày 11-5-2013 và Nguyễn Phước L, sinh ngày 21-11-2016 cho chị Đặng Thị Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Mạnh C không cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Thúy H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Nguyễn Mạnh C không có văn bản trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Chị Đặng Thị Thúy H trình bày không có, anh Nguyễn Mạnh C không có văn bản trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
5. Về án phí: Chị Đặng Thị Thúy H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp là 300.000đ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/0001584 ngày 13-9-2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 30/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 65/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về