Bản án 65/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 65/2018/HSST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2018/HSST ngày 15 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Phan Lương Đ, sinh ngày 04/9/1988 tại thôn Quan Hà, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Quan Hà, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phan Văn Thoại và bà Lương Thị Nguyệt có vợ Vũ Thị Ngọc và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh tháng 02/2018. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Từ tháng 2/2007 tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam đến tháng 8/2008 xuất ngũ trở về địa phương lao động tự do.

Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” “có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Chí Diên- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Bình.

Bị hại: Anh Lê Trọng Sỹ, sinh năm 1999

Trú tại: thôn An Cầu, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình “đã chết”.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Lê Trọng Cường, sinh năm 1964 “có mặt”.

Trú tại: thôn An Cầu, xã xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lê Trọng Cường, sinh năm 1964 “có mặt”.

Trú tại: thôn An Cầu, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

2. Anh Lương Trung Sơn, sinh năm 1999 “vắng mặt”.

3. Anh Lương Ngọc Phúc, sinh ngày 03/4/2000 “vắng mặt”.

4. Anh Lương Ngọc Lợi, sinh năm 1975 “vắng mặt”.

5. Cháu Phan Anh Vũ, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2014

Người đại diện cho cháu Vũ là chị Vũ Thị Ngọc, sinh năm 1991“có mặt”.

Cùng trú tại: thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Ngọc Ánh, sinh năm 1987 “vắng mặt”.

2. Trú tại thôn Tư La, xã Minh Khai, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

3. Chị Trần Thị Quyên, sinh năm 1971 “vắng mặt”.

4. Chị Nguyễn Thị Mai, sinh năm 1977 “vắng mặt”.

5. Anh Lương Ngọc Quân, sinh năm 1976 “vắng mặt”.

6. Anh Lương Minh Quân, sinh năm 1983 “vắng mặt”.

7. Anh Lương Ngọc Bái, sinh năm 1975 “vắng mặt”.

Cùng trú tại: thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

8. Anh Khúc Tiến Đông, sinh ngày 08/01/2000 “vắng mặt”.

Trú tại: thôn Ngô Quyền, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

9. Anh Lê Cao Thưởng, sinh năm 1985 “vắng mặt”.

Trú tại: thôn Châm Nhị, xã Vân Du, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên

10. Anh Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 23/01/2000 “vắng mặt”.

Trú tại: thôn Hùng Tiến, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 18/02/2018, Phan Lương Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave & biển kiểm soát 17B4 – 085.11, trong tình trạng có sử dụng rượu, chở sau cháu Phan Anh Vũ, sinh ngày 14/10/2014 (là con trai Đ) đi về nhà theo hướng từ thôn Đồng Thái, xã Cộng Hoà đi thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đ điều khiển xe đi với tốc độ 40 - 50 km/h trong điều kiện thời tiết bình thường, khô ráo, tầm nhìn không bị hạn chế, che khuất, trời tối, mật độ người và phương tiện tham gia giao thông ít. Khi đi đến đoạn đường ĐH65 thuộc thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Đ phát hiện và tránh 02 xe máy đi ngược chiều. Đi tiếp được khoảng 50m, do đi không đúng phần đường nên xe mô tô của Đ đã va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave & biển kiểm soát 17N4 - 2084 do anh Lê Trọng Sỹ, điều khiển chở sau anh Lương Ngọc Phúc và anh Lương Trung Sơn đi ngược chiều. Hậu quả: anh Lê Trọng Sỹ chết tại chỗ, cháu Phan Anh Vũ, anh Lương Ngọc Phúc, anh Lương Trung Sơn và Phan Lương Đ bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và Bệnh viện đa khoa tỉnh Hưng Yên.

Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 22/PY/PC54 ngày 21/02/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Đa chấn thương vùng đầu, mặt, cổ và toàn thân do tai nạn giao thông làm gãy đốt sống cổ số 3, đứt tuỷ. Nạn nhân Lê Trọng Sỹ chết do đứt tuỷ sống vùng cổ”.

Bản cáo trạng số 59/KSĐT ngày 13-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Phan Lương Đ về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Trong phần tranh luận, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phan Lương Đ như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phan Lương Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Lương Đ từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Phan Lương Đ đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000 đồng khắc phục hậu quả. Người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Lê Trọng Cường không yêu cầu bồi thường gì khác.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave & Biển kiểm soát 17N3-2084, quá trình điều tra đã làm rõ chiếc xe trên là sở hữu hợp pháp của ông Lương Ngọc Lợi (bố đẻ anhLương Ngọc Phúc). Ngày 18/02/2018, anh Phúc đã tự ý lấy chiếc xe trên đi chơi và giao cho anh Lê Trọng Sỹ điều khiển xảy ra va chạm với xe máy do Phan Lương Đ điều khiển và bị hư hỏng. Ông Lợi không đề nghị bị cáo Đ phải bồi thường trách nhiệm dân sự đối với chiếc xe trên.

Đối với thương tích của cháu Phan Anh Vũ, anh Lương Ngọc Phúc, anh Lương Trung Sơn. Đại diện cho cháu Vũ là chị Vũ Thị Ngọc; Đại diện cho anh Phúc là ông Lương Ngọc Lợi; anh Sơn từ chối giám định thương tích và không đề nghị bị cáo Đ bồi thường trách nhiệm dân sự.

Về xử lý vật chứng; về án phí theo quy định của pháp luật.

Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Lê Trọng Cường đề nghị: Gia đình đã nhận khoản tiền do bị cáo Đ bồi thường, tại phiên tòa không yêu cầu về bồi thường dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Đ.

Người đại diện hợp pháp cho cháu Vũ là chị Vũ Thị Ngọc trình bày bản thân bị cáo Đ là bố đẻ cháu Vũ là lao động chính trong gia đình, bản thân chị sức khỏe yếu không lao động nặng được và hiện nay cháu Vũ đang trong quá trình điều trị, bị cáo Đ và chị đang phải nuôi con nhỏ, đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự và không có yêu cầu gì khác.

Trợ giúp viên pháp lý Lê Chí Diên bào chữa cho bị cáo Đ: Nhất trí với bản cáo trạng và không nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù. Ông trợ giúp viên pháp lý cho rằng bị cáo phạm tội với lỗi vô ý không mong muốn hậu quả xảy ra, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải bị cáo đã có ý thức bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, bị cáo Đ đã từng tham gia quân đội có thành tích xuất sắc được khen thưởng danh hiệu thanh niên 03 đỉnh cao quyết thắng. Bản thân bị cáo cũng bị thương tích nặng trong vụ án, con trai bị cáo là cháu Vũ sau vụ tai nạn trên bị chấn thương sọ não hiện chưa hồi phục, là lao động duy nhất trong gia đình và đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, khắc phục hậu quả và được đại diện hợp pháp của bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 260 và khoản 1 khoản 2 Điều 51 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao để xét xử bị cáo Đ mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật và diễn biến tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng bị cáo Phan Lương Đ khai nhận, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và được hưởng án treo để bị cáo lao động và chăm sóc các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội:

Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 18/02/2018, tại đường ĐH65 thuộc địa phận thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Báo cáo về vụ việc của Công an xã C ngày 18/02/2018. Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 09 giờ 20 phút ngày 19/02/2018 tại Công an huyện Hưng Hà .

Biên bản khám nghiệm tử thi, Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 22/PY/PC54 ngày 21/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Phiếu kết quả xét nghiệm ngày 19/02/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Sở y tế tỉnh Hưng Yên đối với Phan Lương Đ: sinh hóa máu Ethanol 35.2 mmol/L (trị số bình thường <=2.2). Biên bản xác minh tại Trung tâm y tế huyện Hưng Hà: kết quả quy đổi chỉ số mmol/L ra mg/100ml theo Quyết định số 933/QĐ-BYT ngày 23/3/2010 của Bộ trưởng Bộ y tế quy định về đo nồng độ cồn Etanol trong máu áp dụng trong các bệnh viện. tại điểm d mục 3 Quyết định 933 quy định biểu thị kết quả và hệ số chuyển đổi: mmol/L x4,608=mg/100mL, kết quả như sau: 35.2x4,608=162,2016 mg/100mL. Thành phần Etanol trong máu của Đ là 162,2016 mg/100mL.

Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Lời khai của người làm chứng:

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 18/02/2018, tại đoạn đường ĐH65 thuộc thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Bị cáo Phan Lương Đ điều khiển xe môtô biển kiểm soát 17B4 – 085.11, trong tình trạng có sử dụng rượu, thành phần Etanol trong máu là 162,2016 mg/100mL, đi theo hướng từ thôn Đồng Thái, xã Cộng Hoà đi thôn Quan Hà, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình do đi không đúng phần đường, thiếu chú ý quan sát đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 17N4 – 2084 do anh Lê Trọng Sỹ, sinh năm 1999, trú tại thôn An Cầu, xã Cộng Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình điều khiển chở sau anh Lương Ngọc Phúc và anh Lương Trung Sơn đi ngược chiều. Hậu quả: anh Lê Trọng Sỹ bị đa chấn thương vùng đầu, mặt, cổ và toàn thân do tai nạn giao thông làm gãy đốt sống cổ số 3, đứt tuỷ, chết tại chỗ; cháu Phan Anh Vũ, anh Lương Trung Sơn, anh Lương Ngọc Phúc bị thương. Hành vi vi phạm quy định về giao thông đường bộ của bị cáo Đ trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ đồng thời xâm phạm đến tính mạng của anh Sỹ. Do đó, bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ và phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà bị cáo Đ thực hiện đã xâm phạm đến trật tự, an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự, bị cáo vô ý phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại và đã khắc phục hậu quả; bị cáo đã từng tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, hiện nay là lao động chính trong gia đình. Bản thân bị cáo cũng bị thương tích nặng trong vụ án, con trai bị cáo là cháu Vũ sau vụ tai nạn trên bị chấn thương sọ não hiện chưa hồi phục, là lao động duy nhất trong gia đình và đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, khắc phục hậu quả và được đại diện hợp pháp của bị hại là ông Cường xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đ không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Đ phạm tội với lỗi vô ý không mong muốn hậu quả xảy ra có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng cần thiết phải nên hình phạt tù đối với bị cáo nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy không cần bắt bị cáo Đ phải chấp hành hình phạt tù vì bị cáo Đ có khả năng tự cải tạo tại địa chương và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo Phan Lương Đ cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường cho đại diện người bị hại số tiền 20.000.000 đồng. Đại diện của bị hại là ông Lê Trọng Cường (bố đẻ anh Sỹ) đã nhận số tiền trên và có không có yêu cầu, đề nghị bồi thường khoản tiền nào khác.

Đối với thương tích của cháu Phan Anh Vũ, anh Lương Ngọc Phúc, anh Lương Trung Sơn, trong quá trình điều tra, đại diện cho cháu Vũ là chị Vũ Thị Ngọc; anh Phúc và đại diện cho anh Phúc là ông Lương Ngọc Lợi; anh Sơn từ chối giám định thương tích và không đề nghị bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự.

[7] Về xử lý vậy chứng: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave & Biển kiểm soát 17N3-2084, quá trình điều tra đã làm rõ chiếc xe trên là sở hữu hợp pháp của ông Lương Ngọc Lợi (bố đẻ anh Lương Ngọc Phúc). Ngày 18/02/2018, anh Phúc đã tự ý lấy chiếc xe trên đi chơi và giao cho anh Lê Trọng Sỹ điều khiển xảy ra va chạm với xe máy do Phan Lương Đ điều khiển và bị hư hỏng. Ông Lợi không đề nghị bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự đối với chiếc xe trên.

Cần trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave& màu đen, bạc biển kiểm soát 17N4-2084 cho ông Lương Ngọc Lợi. Cần trả lại bị cáo Đ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave& màu trắng, đen, bạc biển kiểm soát 17B4-0851 đã bị hư hỏng; 01 giấy phép lái xe số 330131027859 mang tên Phan Lương Đ, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô số 016812 mang tên Phan Lương Đ.

[8] Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của đại diện Viên kiểm sát buộc bị cáo Đ phải chấp hành hình phạt tù, buộc cách ly khỏi xã hội và chấp nhận chứng cứ gỡ tội của ông Trợ giúp viên pháp lý. Vì bị cáo Đ thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý; mức hình phạt bà Kiểm sát viên đề nghị không quá 03 năm; có nhân thân tốt; có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; có nơi cư trú rõ ràng. Do đó cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị quyết số: 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đối với bị cáo Đ.

[9] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Lương Đ phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt bị cáo Phan Lương Đ 03(ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án (10-10-2018).

3. Giao bị cáo Phan Lương Đ cho Ủy ban nhân dân xã Cộng Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo Phan Lương Đ thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

4. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét giải quyết.

5. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave& màu đen, bạc biển kiểm soát 17N4-2084 cho ông Lương Ngọc Lợi. Trả lại bị cáo Đ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave& màu trắng, đen, bạc biển kiểm soát 17B4-08511 đều đã bị hư hỏng; 01 giấy phép lái xe số 330131027859 mang tên Phan Lương Đ, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô số 016812 mang tên Phan Lương Đ. (Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đang quản lý).

6. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phan Lương Đ phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đ, Người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10 tháng 10 năm 2018). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:65/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về