Bản án 643/2019/DS-PT ngày 13/12/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 643/2019/DS-PT NGÀY 13/12/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 13 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 250/2019/TLPT-DS ngày 08 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2019/DS-ST ngày 22/02/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3226/2019/QĐPT-DS ngày 25 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kiều Ng, sinh năm 1966. (có mặt)

Địa chỉ: F, M, TN 38115, USA.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Kim D, sinh năm 1960. (có mặt)

Địa chỉ: chung cư D1, khu dân cư Ph, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

1/. Ông Trương Văn Ph, sinh năm 1927. (chết năm 2015)

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ ông Trương Văn Ph gồm:

1.1/. Bà Trương Thị Kim A (Mỹ A), sinh năm 1968. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

1.2/. Bà Trương Thị L, sinh năm 1965. (có mặt)

Địa chỉ:, ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

1.3/. Bà Trương Thị Mỹ E, sinh năm 1971. (có mặt)

Địa chỉ: Quốc lộ 80, ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

2/. Ông Trần Thanh H, sinh năm 1969.

Đa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Lê Văn M, sinh năm 1956.

(có mặt) Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

3/. Ông Mai Văn S, sinh năm 1955. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

4/. Bà Trần Thị X, sinh năm 1955. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn: Lut sư Đoàn Công Th – Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Ông Lê Văn M, sinh năm 1956. (có mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

2/. Bà Trần Thị Ch, sinh năm 1962. (có mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Ch: Ông Lê Văn M, sinh năm 1956.

3/. Bà Trương Thị Nh, sinh năm 1955. (chết năm 1999)

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị Nh gồm:

3.1/. Bà Võ Thị Bích Th (Võ Bích Th), sinh năm 1980. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Vĩnh Quy, xã V3, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

3.2/. Bà Võ Thị Mỹ L (Võ Thị L), sinh năm 1977. (có mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

3.3/. Ông Võ Chí Tr (Võ Điền Chí Tr), sinh năm 1984. (chết ngày 28/2/2019)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

3.4/. Ông Võ Chí Th, sinh năm 1987. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

3.5/. Bà Võ Thị Bích T, sinh năm 1991. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

4/. Bà Nguyễn Thị Hồng Th1, sinh năm 1977.

Đa chỉ: Ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Th1: Ông Lê Văn M, sinh năm 1956. (có mặt)

5/. Ông Trương Văn S, sinh năm 1962. (vắng mặt)

Địa chỉ: F, M, TN 38115, USA.

6/. Ông Võ Hữu L, sinh năm 2004. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

7/. Bà Trần Thị Ng. (có mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

8/. Ông Lê Văn H, sinh năm 1964. (có mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

9/. Ông Nguyễn Minh T. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

10/. Ông Nguyễn Hòa K. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

11/. Ông Lê Trần T, sinh năm 1985. (vắng mặt)

Địa chỉ: F, M, TN 38115, USA.

12/. Bà Trương Thị Kiều Tr, sinh năm 1992, chết năm 2016.

Đa chỉ: F, M, TN 38115, USA.

13/. Ông Trương Minh Ch, sinh năm 2000. (vắng mặt)

Địa chỉ: F, M, TN 38115, USA.

14/. Ủy ban nhân dân huyện V1, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp V2, xã V3, huyện V1, thành phố CầnThơ.

15/. Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng C. (vắng mặt)

Địa chỉ: đường N, phường C1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bà Trần Thị Kiều Ng, ông Lê Văn H (đại diện theo ủy quyền của bà Trương Thị Kim A), bà Trương Thị Mỹ E, bà Trương Thị L, ông Lê Văn M, bà Võ Thị Mỹ L, ông Nguyễn Tuấn A (đại diện theo ủy quyền của ông Trần Thanh H).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Trần Thị Kiều Ng trình bày:

Ngày 25/10/2001, bà Ng được Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện Th1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là CNQSDĐ) số 782692 (0009646), thửa 44, tờ bản đồ 11, diện tích 11.228m2 đất tại ấp Q 5, xã Th2, huyện Th1, tỉnh Cần Thơ cũ. Đến nay, ông Trần Thanh H tự cất nhà và canh tác trên một phần diện tích đất nói trên, nên bà yêu cầu ông H phải trả lại đất này. Ngoài ra, bà còn trình bày về nguồn gốc đất này là do ông Trương Văn Ph (Cha chồng) chuyển nhượng theo hợp đồng ngày 26/10/1999, do lúc này ông Ph nợ nần nhiều nên bà đã trả nợ thay cho ông Ph để được ông chuyển nhượng cho bà phần đất trên, nên không thỏa thuận giá cả khi chuyển nhượng. Ngày 26/10/1999 bà có ký tên vào Biên bản thỏa thuận với ông Lê Văn M, theo thỏa thuận này ông M đồng ý nhượng lại số đất trước kia đã mua của ông Ph (6.439,53m2) nay bán lại cho ông Ph là 13 cây vàng (chín tuổi), bà có đưa trước cho ông M 05 triệu đồng hẹn trong vòng 02 tháng sẽ trả đủ, nếu không phải chịu tiền lãi, sau đó bà giao cho ông Ph 50 triệu đồng nhưng ông Ph có trả số tiền này cho ông M không thì bà không biết. Ngày 13/4/2012 và ngày 30/3/2013, bà Ng có đơn kiện bổ sung khởi kiện ông Ph, yêu cầu ông Ph và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà A, L, E và ông S, bà X phải trả cho bà 5.164,2m2 đất, trong đó có 528m2 đất thổ cư thuộc thửa 48, tờ bản đồ 11 mà họ đang chiếm giữ, cất nhà trái phép tại đất tranh chấp. Đối với các tài sản, cây trồng trên đất buộc họ phải di dời.

Đng thời, bà yêu cầu cụ thể ông H phải trả 6.063,8m2 (2L) thuộc thửa 44 nói trên. Theo các đơn kiện bổ sung, bà Ng còn cho rằng vào ngày 23/7/1999 ông Ph có làm giấy cam kết bán phần đất thổ cư trên cho bà, khi đó ông Ph còn giữ giấy chứng khoán trắng cấp ngày 14/4/1990 sau đó ông Ph làm đơn đổi lấy giấy đỏ, khi đo đạc lại thì 528m2 đất thổ cư nằm trong hành lang lộ giới nên không được đưa vào giấy đất đã cấp cho ông Ph ngày 12/8/1999 nói trên, do phải làm ăn xa nên bà nhờ ông Ph giữ đất giùm, nhưng ông M tự ý bán 6.063,8m2 đất (2L) trên cho ông H, những phần đất còn lại thì gia đình ông Ph tự cất nhà sử dụng đến nay. Nên yêu cầu ông H và gia đình ông Ph phải di dời tài sản, cây trồng để trả lại cho bà toàn bộ các diện tích đất trên.

Bị đơn ông Trương Văn Ph khi còn sống có yêu cầu phản tố và trình bày như sau:

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 31/10/2006, có chứng kiến của ông Võ Văn Kh và có xác nhận của UBND xã Th2, ông Ph trình bày do đã cho bà Ng, ông S phần đất này nên số vàng bán đất cho ông M ông không nhận, nay ông không yêu cầu số vàng này, việc sau này bà Ng mua lại đất này của ông M là do bà Ng tự định đoạt chứ không phải bà Ng mua lại cho ông, nên ông không rõ sự việc về sau như thế nào. Đối với hợp đồng chuyển nhượng ngày 26/10/1999 ông không ký tên, bà Ng được cấp giấy đất khi nào thì ông không biết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 09/3/2007, ông Ph trình bày lúc chuyển nhượng đất cho ông M thì bà Ng, ông S cùng đồng ý ký tên vào tờ sang nhượng ngày 20/4/1996 không thì ông không nhớ, ông chứng kiến việc ông M giao vàng cho bà Ng và ông S. Do bà Ng nói đã mua lại đất này của ông M nên ông và vợ ông (bà Nguyễn Thị Đ đã chết) có ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có Ấp xác nhận ngày 26/10/1999 với mục đích sang tên quyền sử dụng đất từ ông cho bà Ng đứng tên, ông không có nhận tiền của bà Ng mà chỉ ký hợp đồng sang tên quyền sử dụng đất. Nên lời khai tại biên bản ngày 31/10/2006 nói trên về việc ông cho rằng không có ký tên là không đúng, nay ông khai lại là ông có ký tên. Ông không nhận tiền của bà Ng để đưa cho ông M (50.000.000 đồng).

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 06/6/2011, ông Ph còn trình bày: phần đất 6.439m2 ông đã chuyển nhượng cho ông M theo Tờ sang nhượng đất thổ và ruộng ngày 20/4/1996 có ông ký tên, ông S cùng bà Ng cũng ký tên, ông M giao 10 cây vàng cho ông S và bà Ng ông không chứng kiến việc giao số vàng này. Việc bà Ng nói đã đưa cho ông 5 triệu đồng và sau đó đưa là 50.000.000 đồng để ông giao cho ông M thì ông không có nhận những số tiền này, mà sau khi chuyển nhượng đất trên cho ông M thì ông có nghe bà Ng nói lại là đã mua phần đất đó của ông M và đã đưa tiền cọc cho ông M là 5 triệu đồng chứ ông không chứng kiến trực tiếp.

Tại Bản tự khai ngày 18/3/2013 ông Ph khai không chuyển nhượng đất cho nguyên đơn, giấy đất đã cấp cho bà Ng là do bà Ng tự làm, Hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 27/10/1999 (Ghi tên ông Ph, bà Đ và Giấy cam kết ngày 23/7/1999 (Có chữ ký ông Ph) cùng Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước ghi tên ngày 22/10/2001 (chữ ký người nộp là ông Ph). Những chứng cứ này là do bà Ng nộp, ông khẳng định ông không ký tên vào những giấy tờ này mà do bà Ng tự làm, vợ ông - bà Đ mất ngày 24/01/1998 là trước ngày ghi trên hợp đồng nhưng hợp đồng trên có tên bà Đ. Trong số 11.228m2 đt thì ông chỉ chuyển nhượng cho ông M 6.439,54m2, số còn lại vẫn thuộc quyền sử dụng của ông, nên ông yêu cầu giám định chữ ký và chữ viết của ông trên những văn bản trên. Đồng thời ông có đơn phản tố yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông và bà Ng ngày 27/10/1999 nói trên là vô hiệu và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Ng.

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là Trương Thị Kim A, Trương Thị L, Trương Thị Mỹ E (con ông Ph) thống nhất trình bày:

Các bà thống nhất theo trình bày và yêu cầu nói trên của ông Ph, ông Ph chuyển nhượng đất cho ông M tại thửa 44, diện tích là 6.439,54m2 với giá 10 cây vàng 24 K, do phần đất này ông Ph đã cho ông S và bà Ng nên các bà nghe ông M nói lại là ông M giao hết số vàng trên cho bà Ng và ông S chứ các bà không chứng kiến trực tiếp việc trao số vàng này giữa hai bên. Ngoài ra, ông Ph không chuyển nhượng cho bà Ng phần đất 11.228 m2 (2L) theo hợp đồng ngày 26/10/1999. Nên các bà thống nhất theo như đề nghị của ông Ph yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/10/1999 giữa bà Ng và ông Ph. Ngoài ra, tại các bản tự khai ngày 18/3/2013 các bà còn cho rằng sau này ông M chuyển nhượng phần đất đã mua của ông Ph cho ông H chứ không phải đất của bà Ng. Nên các bà yêu cầu tuyên bố hợp đồng giữa ông Ph với bà Ng là vô hiệu; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại các biên bản ngày 09/10/2009 bà L, E và A có trình bày: đồng ý với việc ông Ph chuyển nhượng đất tại thửa 44 cho bà Ng. Tuy nhiên tại các đơn ghi cùng ngày 22/8/2010 các bà đều có ý kiến cải chính lời khai trên là các bà đồng ý việc chuyển nhượng đất cho ông M và không đồng ý chuyển nhượng cho bà Ng.

Bị đơn ông Trần Thanh H có đơn phản tố trình bày:

Ông thống nhất như trình bày của ông M nói trên về việc ông nhận chuyển nhượng phần đất trên từ ông M. Theo đơn phản tố ông cho rằng: do bà Ng không mua lại đất của ông M nên ông mua lại phần đất này từ ông M với giá tiền trên như ông M đã trình bày, còn 10 triệu đồng khi nào tách thửa cho ông mới giao đủ. Nay ông cho rằng bị gia đình ông Ph lừa đảo nên yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng giữa ông Ph với bà Ng, đồng thời ổn định đất tranh chấp cho ông được đăng ký và tiếp tục canh tác.

Bị đơn ông Mai Văn S và Trần Thị X trình bày:

Trước đây ông bà có phần đất ngang 14,5m dài 18m giáp mặt tiền đất ruộng của ông Ph, năm 1995 ông đã đổi phần đất này lấy phần đất ruộng. Từ năm 2005 ông bà đã cất nhà ở ổn định cho đến nay. Ông bà không đồng ý với yêu cầu đòi đất của nguyên đơn.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Lê Văn M và bà Trần Thị Ch trình bày:

Ngày 20/4/1996, ông có mua 6.439,53m2 đất của ông Ph với giá 10 lượng vàng 24K, khi mua có vợ chồng bà Ng và ông S chứng kiến và ký tên, có lập Tờ sang nhượng đất thổ và ruộng sao y ngày 13/10/2006. Cụ thể: Đất thổ thửa 48 kích thước 4 x 13,85m dài ra đến ruộng + đất ruộng là 40,8 x 141,2 x 153 và ngang sau ngoài ruộng là 46m, sau đó giữa ông và ông Ph cùng vợ là bà Đ có lập Hợp đồng chuyển nhượng, bán kết quả lao động và đầu tư nhưng chỉ có ông Ph ký (có xác nhận của Trưởng ấp và UBND), ông đã trả đủ vàng nên ông Ph đã giao đất này cho ông M sử dụng từ năm 1996 (ông M giao đủ vàng cho bà Ng nhận có ông S chứng kiến, ông Ph đã giao giấy đất cho ông để làm thủ tục). Nhưng đến ngày 26/10/1996 ông Ph mượn lại giấy đất này để vay ngân hàng 03 tháng sẽ trả lại, nhưng không trả đúng hạn do vay ngân hàng nên ông không sang tên được. Đến ngày 26/10/1999, ông Ph cùng con là ông S, bà Ng cùng con rể là ông Hoành gặp ông hỏi mua lại phần đất đã bán cho ông nói trên và có làm tờ cam kết (Biên bản thỏa thuận bà Ng ký ngày 26/12/1999) với giá 13 cây vàng 24K, bà Ng đã giao cọc trước cho ông 05 triệu đồng, số còn lại hẹn 02 tháng sau sẽ trả, bà Ng đã thay mặt ông Ph ký tên vào tờ cam kết này, cho đến nay ông M chưa trả 05 triệu đồng tiền cọc này cho bà Ng. Sau đó ông gặp bà Ng nói do kẹt tiền nên bán cho ai thì bán. Vì vậy, nên đến ngày 09/10/2000, ông M bán lại cho ông H phần đất này với giá 60 triệu đồng, ông đã nhận 50 triệu đồng, còn lại 10 triệu đồng thì khi nào chuyển tên sẽ giao đủ, giữa ông và ông H có làm giấy tay, được Ban nhân dân ấp và người lân cận ký tên xác nhận ngày 26/02/2001 và Đơn xin xác nhận thì ghi xác nhận ngày 30/05/2007. Đơn này không có chữ ký của bà Ng và ông S, tờ thỏa thuận về mua bán đất ngày 09/12/2000 giữa ông M và vợ là bà Ch bán đất này cho ông H có xác nhận UBND xã Th2 vào ngày 22/3/2001. Sau đó ông có gặp ông Ph để lấy giấy chuyển tên sang cho ông H thì ông Ph nói đã tách cho bà Ng rồi, nên ngày 09/6/2001 ông M làm tờ trình đến UBND xã và ấp đã lập biên bản nhiều lần nhưng không giải quyết được vì bà Ng vắng mặt.

Vì vậy, ông M có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy một phần diện tích trên giấy đất đã cấp cho bà Ng, đồng thời ổn định cấp giấy đất cho ông diện tích 6.439,52m2 trên. Tại biên bản lời khai ngày 09/9/2007, ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Ng và ông Ph. Đồng thời, bổ sung yêu cầu: Bác đơn kiện của bà Ng đồng thời yêu cầu công nhận các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Ph và ông M và hợp đồng giữa ông M và ông H, công nhận phần đất ông đang sử dụng.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Theo ông Trương Văn S trình bày: Ngày 29/7/2009, ông S có văn bản chối từ nhận di sản thừa kế 11.228m2 đất 2L nói trên. Theo bản tự khai ngày 02/9/2009, ông S trình bày bà Ng đã được ông Ph chuyển nhượng diện tích 11.228m2 đt tại thửa 44, ngày 25/10/2001 bà Ng đã được cấp giấy chứng nhận. Việc ông H tự ý nhận chuyển nhượng từ ông M 6.063,8m2 mà không được ông và bà Ng đồng ý là trái pháp luật. Ngoài ra, ông còn trình bày đề nghị giải quyết vụ án vắng mặt ông, mọi tranh chấp giữa bà Ng với ông H, ông M và ông Ph thì bà Ng toàn quyền quyết định thay ông.

Theo Võ Thị L, Võ Bích Th, Võ Chí Tr, Võ Chí Th, Võ Thị Bích T (Là con của bà Trương Thị Nh - mất năm 1999) trình bày: Tại tờ tường trình năm 2014 và Biên bản lời khai ngày 10/6/2015 đều trình bày không yêu cầu thụ hưởng phần đất tranh chấp giữa bà Ng với ông Ph và ông H, đề nghị Tòa án giải quyết chấp nhận nội dung yêu cầu của ông Ph theo quy định của pháp luật.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng Th1 trình bày: Bà thống nhất với ý kiến của ông Trần Thanh H.

Theo đại diện Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng thương mại C trình bày:

Theo biên bản lấy lời khai xác định đất nằm trong quy hoạch được duyệt từ năm 2007. Do đất đang tranh chấp nên chưa triển khai dự án đối với đất trên. Chờ kết quả giải quyết của Tòa án. Đồng thời xin giải quyết vắng mặt theo quy định pháp luật.

Đi diện Ủy ban nhân dân huyện V1 trình bày: Tại Công văn số 163/UBND-NC ngày 11/4/2012 xác định ngày 26/10/1999 ông Trương Văn Ph lập thủ tục chuyển nhượng hết diện tích 11.228m2 cho bà Trần Thị Kiều Ng, nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000646 ngày 25/10/2001 cho hộ bà Ng tại thửa 44, diện tích 11.228m2, tờ bản đồ 11, ấp Q 5, xã Th2 (nay là ấp V, thị trấn V1) là đúng theo trình tự pháp luật. Theo quy định thì không có cơ sở thu hồi giấy chứng nhận đã cấp đúng quy định. Từ trước đến nay, Ủy ban không có thụ lý giải quyết trường hợp đề nghị thu hồi giấy CNQSD đất của bà Ng. Đại diện Ủy ban yêu cầu vắng mặt trong quá trình tố tụng.

Người làm chứng ông Nguyễn Hòa L (chồng bà Trương Thị Mỹ E - bà E là con ông Ph) trình bày: Vào năm 2006, tại nhà bà Ng, bà Ng có hướng dẫn và nhờ ông viết hộ tờ cam kết với nội dung ông Ph đồng ý nhượng hết toàn bộ đất cho bà Ng. Khoảng ít ngày sau bà Ng rủ ông về quê thăm gia đình, lúc này bà Ng có mời ông Ph qua nhà của ông chơi, vì nhà ông Ph gần nhà của ông để nói chuyện và bà đưa tờ cam kết nhờ ông Ph ký tên nhưng ông Ph không ký và ông nói “tao biết gì đâu mà ký”. Cho đến nay do đâu mà tờ cam kết này có chữ ký của ông Ph thì ông không rõ.

Theo ông Lê Văn H (Là em của ông M và là con rể của ông Ph) trình bày: Ông trực tiếp chứng kiến ông M giao 10 cây vàng mua đất của ông Ph cho bà Ng vì ông là người môi giới việc mua bán này. Sau đó, ông M có bán lại cho bà Ng phần đất này, bà Ng đặt cọc cho ông M là 05 triệu đồng, bằng khoán do bà Ng giữ, nhưng bà Ng không giao đủ vàng nên ông M kiếm bà Ng để đòi vàng, bà Ng nói ai mua cứ bán cho họ đi, bà Ng giữ bằng khoán không đưa cho ông M tách giấy.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2019/DS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ quyết định:

1.Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất đối với ông Mai Văn S và bà Trần Thị X, do nguyên đơn rút một phần yêu cầu kiện đối với bà X và ông S. Bà X, ông S có quyền liên hệ cơ quan chức năng để làm thủ tục tách thửa sang tên phần đất đang sử dụng.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Thanh H, yêu cầu độc lập của ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Che do chưa có cơ sở.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn của bà Trần Thị Kiều Ng về việc đòi lại quyền sử dụng đất tại thửa 44, một phần thửa 48; tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Th2 (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trương Văn Ph với bà Trần Thị Kiều Ng về việc chuyển nhượng quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số 44 có diện tích 11.228m2 đất 2L, tại thửa đất đất 2L, thuộc thửa 44, tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Th2 (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Công nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000646 ngày 25/10/2001 cấp cho hộ bà Trần Thị Kiều Ng diện tích 11.228m2 tại thửa đất đất 2L, thuộc thửa 44, tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Th2 (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Bà Ng được liên hệ cơ quan chức năng để yêu cầu chỉnh lý diện tích tại thửa 44 như đã nêu trên.

Buộc hộ ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Hồng Th1 có trách nhiệm trả cho hộ bà Trần Thị Kiều Ng 5.418,70m2 đất 2L tại thửa đất 2L, thuộc thửa 44, tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Thanh Quới (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Buộc hộ ông H và bà Th1 giao trả phần đất có diện tích 78,8m2 thuc thửa 44, tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Th2 (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ cho bà Trần Thị Kiều Ng để bà Ng có đường đi vào phần đất tại thửa 44.

(Kèm theo Bản trích đo địa chính ngày 14/6/2018).

Nguyên đơn có quyền liên hệ cơ quan chức năng để làm thủ tục kê khai đăng ký phần đất có diện tích 78,8m2 thuc thửa 44, thuộc tờ bản đồ số 11, ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

Buộc hộ bà Trương Thị L, hộ bà Trương Thị Mỹ E, hộ bà Trương Thị Kim A có trách nhiệm giao cho hộ bà Ng 6.323,90m2 đất 2L tại thửa đất 2L, thuộc thửa 44, tờ bản đồ số 11, ấp Q 5 cũ, xã Th2 (cũ) nay là ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

(Kèm theo Bản trích đo địa chỉnh ngày 18/3/2014).

Buộc bà Trương Thị Mỹ E có trách nhiệm tháo dỡ di dời, tháo dỡ trả lại một phần căn nhà phía sau có diện tích 44,8m2 tại thửa 44 tại vị trí F thuộc tờ bản đồ số 11, ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ trả lại đất cho hộ Bà Ng. (kèm theo Bản trích đo địa chính ngày14/6/2018) Buộc hộ bà Trần Thị Kiều Ng trả cho ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Hồng Th1 số tiền 151.188.900 đồng (Một trăm năm mươi mốt triệu, một trăm tám mươi tám nghìn, chín trăm đồng) giá trị toàn bộ tài sản trên đất tại thửa 44 và thửa 48 do bà ông H và bà Th1 đã xây dựng.

Buộc hộ bà Trần Thị Kiều Ng có trách nhiệm trả lại tổng giá trị cây trồng là 8.876.000 đồng (Tám triệu, tám trăm bảy mươi sáu nghìn đồng) cho các con ông Ph gồm hộ bà A, hộ bà L, hộ bà Mỹ E.

Bà Ng được sở hữu toàn bộ giá trị cây trồng và vật kiến trúc trên đất tại thửa 44 và một phần thửa 48 phần đất mà ông H bà Th1 đã xây dựng và hoa màu hộ bà Mỹ A, hộ bà L, hộ bà Mỹ E đã trồng thuộc tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ.

4. Không chấp nhận yêu cầu tranh chấp quyền sử đất của nguyên đơn đối với bà Trương Thị Kim A; Trương Thị L, Trương Thị Mỹ E tại một phần thửa đất số 48, tờ bản đồ số 11, ấp V, thị trấn V1, huyện V1, thành phố Cần Thơ do chưa có cơ sở.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 04/3/2019, ông Lê Văn H (là đại diện theo ủy quyền của bà Trương Thị Kim A tại cấp sơ thẩm), bà Trương Thị Mỹ E, bà Trương Thị L, ông Lê Văn M, bà Võ Thị Mỹ L nộp đơn kháng cáo đối với toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 05/3/2019, bà Trần Thị Kiều Ng có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận diện tích 528m2 thuc thửa số 48 cho bà.

Ngày 07/3/2019, ông Nguyễn Tuấn A (là đại diện theo ủy quyền của ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Hồng Th1 tại cấp sơ thẩm) nộp đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 44 cho ông H, bà Th1.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự có kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Ng yêu cầu Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, công nhận diện tích đất 528m2, thửa số 48 thuộc quyền sở hữu của bà Ng và buộc những người đang chiếm giữ trên đất di dời và trả lại đất cho bà Ng; bà Ng được quyền đăng ký kê khai hoặc được liên hệ với chủ đầu tư hiện đang có dự án trên đất để được nhận bồi thường.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng; hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Ng và công nhận diện tích đất tranh chấp đã nhận chuyển nhượng từ ông Ph sang cho ông M, sau đó đến ông H.

Ông Lê Văn M đại diện cho ông Trần Thanh H đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Ng.

Bà Trương Thị L, Trương Thị Mỹ E, Võ Thị Mỹ L và ông Lê Văn H đề nghị Hội đồng xét xử hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan với bà Ng, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Ng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Bà Ng đòi lại quyền sử dụng đất căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng ngày 26/10/1999 và giấy cam kết ngày 23/7/1999 có chữ ký của ông Ph nhưng ông Ph không thừa nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không trưng cầu giám định mà công nhận giá trị của các văn bản này là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ diện tích đất 6.439,53m2 bà Ng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông H quản lý, sử dụng trong một thời gian dài bà Ng không có khiếu nại. Tòa án cấp sơ thẩm không công nhận việc chuyển nhượng diện tích 528m2 gia ông Ph và bà Ng nhưng lại buộc ông H giao trả 78m2 để bà Ng có đường đi vào thửa đất số 44 là không đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các đương sự, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bà Trần Thị Kiều Ng, ông Lê Văn H (đại diện theo ủy quyền của bà Trương Thị Kim A), bà Trương Thị Mỹ E, bà Trương Thị L, ông Lê Văn M, bà Võ Thị Mỹ L, ông Nguyễn Tuấn A (đại diện theo ủy quyền của ông Trần Thanh H) nộp trong hạn luật định, là hợp lệ nên có cơ sở chấp nhận xem xét yêu cầu kháng cáo.

[2] Về tố tụng: Ông Trương Văn Ph là bị đơn, chết năm 2015. Những người thừa kế theo pháp luật của ông Ph sẽ kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Ph. Trong những người con của ông Ph có bà Trương Thị Nh đã chết năm 1999. Do vậy, 5 người con của bà Nh với tư cách là người thừa kế thế vị sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Ph là bị đơn, gồm: Bà Võ Thị Bích Th (Võ Bích Th), bà Võ Thị Mỹ L (Võ Thị L), ông Võ Chí Tr (Võ Điền Chí Tr), ông Võ Chí Th, bà Võ Thị Bích T. Tòa án cấp sơ thẩm xác định những người con của bà Nh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chưa chính xác.

Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Võ Thị Mỹ L là chị của ông Võ Chí Tr (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nh) trình bày ông Trung đã chết ngày 28/2/2019 (trước khi xét xử sơ thẩm) nhưng cấp sơ thẩm không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trung vào tham gia tố tụng. Tương tự, ông Võ Hữu T (là con ông Ph, người thừa kế của bà Đ) chết năm 2004 nhưng không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T vào tham gia tố tụng là thiếu sót.

[3] Về nội dung:

Diện tích đất tranh chấp thuộc thửa 44, tờ bản đồ 11, diện tích 11.228m2 tại ấp Q 5, xã Th2, huyện Th1, tỉnh Cần Thơ (nay là huyện Vĩnh Lộc, thành phố Cần Thơ) có nguồn gốc của vợ chồng ông Trương Văn Ph, bà Nguyễn Thị Đ, ông Ph được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lần đầu (giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất) vào ngày 14/4/1990.

Theo bà Ng trình bày, bà được ông Ph chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất này để cấn trừ nợ giữa bà với ông Ph, do bà đã trả nợ cho ông Ph. Tuy nhiên, bà Ng không có tài liệu, chứng cứ gì để xác định số tiền vay nợ cụ thể là bao nhiêu, thời gian giao nhận tiền, thời hạn vay nợ như thế nào. Ông Ph và các bị đơn không xác nhận lời trình bày của bà Ng về vấn đề này.

Bà Ng được sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 26/10/1999. Tuy nhiên, theo Giấy chứng tử của UBND xã Th2, huyện Th1 thì bà Đ chết ngày 24/01/1998. Hợp đồng được xác lập sau thời điểm mở thừa kế của bà Đ. Tuy nhiên, thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng này còn thiếu ý kiến những người thừa kế theo pháp luật của bà Đ gồm: bà L, bà E, bà Kim A và những người con của bà Nh. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà L, bà E, bà Kim A có yêu cầu phản tố đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ph với bà Ng ngày 26/10/1999.

Ngoài ra, diện tích đất chuyển nhượng theo hợp đồng này là toàn bộ 11.228m2 tha 44, tờ bản đồ 11 tại ấp Q 5, xã Th2, huyện Th1, tỉnh Cần Thơ, tuy nhiên, trên thực tế, từ năm 1995, gia đình ông Ph đã hoán đổi một phần đất với gia đình ông Mai Văn S và bà Trần Thị X. Ông S, bà X đã nhận đất, xây cất nhà ở ổn định từ năm 1995.

Ngoài ra, trên đất còn có nhà của bà L, bà E, bà Kim A đã xây dựng, và mồ mả của gia đình nhưng trên hợp đồng chuyển nhượng không được đề cập tới.

Hơn nữa, từ năm 1996, ông Ph đã sang nhượng một phần đất cho ông M với diện tích 6.439,53m2 theo Tờ sang nhượng đất thổ và ruộng ngày 20/4/1996 có ông Ph, ông S cùng bà Ng ký tên. Ông M đã nhận đất và sử dụng từ năm 1996. Chính bà Ng có thỏa thuận đặt cọc 5.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng lại đất của ông M nhưng không xuất trình được văn bản thể hiện đã thanh toán tiền chuyển nhượng, ông M, ông Ph xác định chưa nhận được số tiền chuyển nhượng như bà Ng trình bày.

Trên thực tế, sau khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bà Ng không nhận đất quản lý, sử dụng, mà gia đình ông Ph, bà L, bà E, bà Kim A, ông M vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng đất cho đến nay.

Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng như bà Ng trình bày chưa có đủ ý kiến của chủ sử dụng đất. Về nội dung, phản ánh không đúng hiện trạng của đối tượng chuyển nhượng. Việc thanh toán tiền chuyển nhượng chưa đủ căn cứ để xác định giá trị chuyển nhượng là bao nhiêu, các bên thanh toán tiền như thế nào.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ các vấn đề trên mà đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng là chưa có đủ căn cứ vững chắc.

[4] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm có thiếu sót về tố tụng và thu thập chứng cứ chưa đầy đủ nên cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm, để giải quyết lại vụ án theo đúng quy định pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

[5] Do hủy bản án sơ thẩm nên các đương sự có kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Kiều Ng, bà Trương Thị Kim A, bà Trương Thị Mỹ E, bà Trương Thị L, ông Lê Văn M, bà Võ Thị Mỹ L, ông Trần Thanh H.

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2019/DS-ST ngày 22 tháng 2 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

2. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định pháp luật.

3. Án phí dân sự phúc thẩm:

Hoàn lại cho bà Trương Thị Kim A 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp (ông Lê Văn H nộp thay) theo biên lai thu số 001467 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho bà Võ Thị Mỹ L 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001470 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho bà Trương Thị L 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001471 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho ông Lê Văn M 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001468 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho bà Trương Thị Mỹ E 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001469 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho ông Trần Thanh H 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp (ông Nguyễn Tuấn A nộp thay) theo biên lai thu số 001479 ngày 11/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

Hoàn lại cho bà Trần Thị Kiều Ng 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001473 ngày 07/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 643/2019/DS-PT ngày 13/12/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu:643/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về