Bản án 64/2021/HNGĐ-ST ngày 16/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 701/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 740/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Kim H, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số N, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng, hiện cư trú tại: Số N, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Đào Toàn T, nơi cư trú: Lữ Đoàn 679 Vùng I - Hải Quân, địa chỉ: Thôn X, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 4 năm 2021, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Ngô Thị Kim H trình bày:

Chị Ngô Thị Kim H và anh Đào Toàn T chung sống với nhau năm 2003 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận N, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 11 năm 2003. Sau khi kết hôn hai vợ chồng anh chị về chung sống với nhau tại gia đình nhà chồng ở Số N, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng, sau đó chuyển về sinh sống tại Số N, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng hòa thuận và có 02 con chung, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do tính anh T thường xuyên uống rượu, chơi bời cờ bạc, lô đề dẫn đến nợ nần nhiều, kinh tế gia đình khó khăn, chị H và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Năm 2020, chị H đã yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T nhưng sau đó vì nghĩ đến các con nên chị rút đơn khởi kiện. Tuy vậy mâu thuẫn không giảm. Chị H và anh T đã sống ly thân với nhau được một thời gian, hai bên không còn quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh T. Về con chung: Chị H và anh T có 02 con chung là Đào Nam P, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2004 và Đào Hải N, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2012. Chị H đề nghị được nuôi cả hai con và anh T phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Về tài sản chung: Chị Ngô Thị Kim H trình bày chị và anh T tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H thay đổi yêu cầu về con chung, theo đó chị đề nghị khi ly hôn chị được nuôi cả hai con cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Đào Toàn T có ý kiến trình bày: Anh T thống nhất với chị H về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống của vợ chồng. Anh T xác định vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do lỗi của anh T không có thời gian chăm sóc, lo toan cho gia đình. Tuy nhiên anh T xác định mâu thuẫn của vợ chồng anh chị chưa đến mức phải ly hôn, vợ chồng tự giải quyết với nhau. Nay chị H có đơn xin ly hôn với anh, anh T đề nghị tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ với nhau. Về con chung: Anh T thống nhất với chị H vợ chồng có 02 con chung là Đào Nam P, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2004 và Đào Hải N, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2012. Do không đồng ý ly hôn nên anh không có ý kiến gì về con chung. Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Ngô Thị Kim H và bị đơn anh Đào Toàn T đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị H được ly hôn anh T; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con là Đào Nam P, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2004 và Đào Hải N, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2012 cho chị Ngô Thị Kim Hà nuôi dưỡng đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; về việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

về tài sản chung: Chị H và anh T không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét giải quyết. Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Chị Ngô Thị Kim H có đơn xin ly hôn anh Đào Toàn T, nơi cư trú: Lữ Đoàn 679 Vùng I - Hải Quân, địa chỉ: Thôn X, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đã được tống đạt cho anh T hợp lệ. Anh T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử giải quyết vụ án vắng mặt anh T theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Kim H và anh Đào Toàn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận N, thành phố Hải Phòng năm 2003 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Cuộc sống vợ chồng thường xay ra xung đột, cãi vã căng thẳng. Năm 2020, chị H đã từng làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T, tuy nhiên vì nghĩ thương con nên chị lại thôi. Được một thời gian mâu thuẫn lại bùng phát. Gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn vợ chồng không thay đổi. Chị H và anh T đã sống ly thân với nhau được một thời gian, hai bên không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H có đơn xin ly hôn với anh T là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị H và anh T có 02 con chung là Đào Nam P, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2004 và Đào Hải N, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2012. Chị H đề nghị được nuôi cả hai con cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy anh T công tác trong quân đội, không đảm bảo về thời gian chăm sóc con. Chị H bán hàng tự do gần nhà, có thu nhập và nơi ăn chốn ở ổn định Cháu P cũng đã sắp đủ 18 tuổi. Do vậy yêu cầu của chị H tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, cần giao cả hai con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện của hai anh chị và đảm bảo cuộc sống của các cháu. Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T.

[5] Về tài sản chung: Chị H và anh T tự thỏa thuận với nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Kim H.

1. Cho chị Ngô Thị Kim H được ly hôn với anh Đào Toàn T.

2. Về con chung: Giao cả hai con chung Đào Hải N, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2012 và Đào Nam P, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2004 cho chị Ngô Thị Kim H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Ngô Thị Kim H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ngô Thị Kim H đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0019255 ngày 13 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Ngô Thị Kim H đã nộp đủ số án phí dân sự sơ thẩm.

4. Chị Ngô Thị Kim H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đào Toàn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2021/HNGĐ-ST ngày 16/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về