Bản án 64/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 66/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành D (D BK), sinh năm 1982 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: khu phố A, phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành D (đã chết) và bà Trần Thị H, sinh năm 1952; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm 1985; Con: Có 02 người con lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/7/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm 1985:

Nơi cư trú: Ấp PH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) - Nguyễn Văn C, sinh năm 1952:

Nơi cư trú: phường TL, quận C, thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) * Người chứng kiến:

- Trần Ngọc D, sinh năm 1991:

Nơi cư trú: Ấp TP, xã ĐT, huyện MCN, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt) - Phạm Văn C, sinh năm 1973:

Nơi cư trú: NQ phường AH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 35 phút ngày 13/6/2020, lực lượng Công an tỉnh Bến Tre tuần tra trên đường CMT thuộc phường AH, thành phố BT thì phát hiện Nguyễn Thành D đang điều khiển xe mô tô biển số 54Y3-0009 vượt đèn đỏ tại chốt đèn ngã tư Ngô Quyền nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong túi áo phái trước, bên phải của bị cáo D đang mặc có 01 túi nylon hàn kín ba phía, phía còn lại hở bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên tiến hành thu giữ tang vật, lập biên bản vụ việc và thông báo cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Bến Tre đến tiếp nhận để giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nylon được hàn kín ba phía, phía còn lại hở, bên trong túi nylon có chứa tinh thể màu trắng. (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì có chữ ký và ghi tên Nguyễn Hải Đăng Kh, Phạm Văn C, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Hữu Kh, hai dấu vân tay ghi tên D, Nguyễn Thị Ng và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường An Hội, thành phố Bến Tre).

- 01 xe mô tô biển số 54Y3-0009.

Theo kết luận giám định số 54/2020/GĐMT ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng: 0,6044 gam.

Tại bản cáo trạng số 69/CT-VKSTPBT ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho Nguyễn Thị Ngọc V 01 xe mô tô biển số 54Y3-0009.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong số 54/2020, bên trong có chứa ma túy sau giám định:

Đối tượng tên Cường bán ma túy cho bị cáo D do không rõ họ tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Bị cáo Nguyễn Thành D khai nhận: 01 túi nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng mà lực lượng Công an thu giữ là ma túy đá của bị cáo. Bị cáo D có được là do mua của một người tên Cường (không rõ họ và địa chỉ cụ thể) ở Thành Phố Hồ Chí Minh vào khoảng 20 giờ ngày 13/6/2020 với giá 100.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo D trở về Bến Tre và trong lúc điều khiển xe mô tô biển số 54Y3-0009 chạy trên đường Cách Mạng Tháng Tám, bị cáo D điều khiển xe vượt đèn đỏ nên bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện số ma túy mà D đang cất giấu nên lập biên bản và thu giữ tang vật. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến bị cáo không có ý kiến gì, Kiểm sát viên đề nghị xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến. Xét việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến là phù hợp quy định Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Bị cáo D có lời khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản sự việc ngày 13/6/2020, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Bị cáo D đã có hành vi cất giấu trái phép 0,6044 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng.

[3] Bị cáo D là người có đủ năng lực nhận biết việc cất giấu ma túy là bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn mua và cất giấu ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự nơi bị cáo thực hiện tội phạm, nguyên nhân phát sinh các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 Về nhân thân, bị cáo D không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên xét quá trình hoạt động bản thân bị cáo D đã từng bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản, nhiều lần vị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đã được xóa.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo D được hưởng là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn có nghĩa vụ nuôi con chưa thành niên nên được xem xét giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo D về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho Nguyễn Thị Ngọc V 01 xe mô tô biển số 54Y3-0009.

- Đối với 01 phong bì chứa mẫu ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy:

[9] Bị cáo Nguyễn Thành D khai đối tượng tên Cường bán ma túy cho bị cáo nhưng chưa rõ địa chỉ tên họ nên chưa tiến hành làm việc được. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh xử lý đối tượng tên Cường theo quy định pháp luật.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo D phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành D (D BK) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù:

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho Nguyễn Thị Ngọc V 01 (một) xe mô tô biển số 54Y3-0009.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong số 54/2020, bên trong có chứa ma túy sau giám định là 0,5100 gam, Methamphetamine:

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2020 hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý).

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Thành D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được kháng cáo trong hạn (15) mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mươi lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về