Bản án 64/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TR, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Tr, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Trương Văn H, sinh năm 1986; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Y, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị G; Chưa có vợ; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 25/11/2015 bị Tòa án nhân dân TP. Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2017. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2020 đến ngày 25/6/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

2/ Trương Văn M, sinh năm 1990; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Th, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn S và bà Vũ Thị D; Chưa có vợ; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2020 đến ngày 25/6/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Anh Đỗ Hùng Tr - Sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn Tr, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 21 giờ ngày 13/6/2020, Trương Văn M đi xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Exiter, BKS:36B4-965.63 chở phía sau Trương Văn H đi từ nhà mình đến trang trại nhà anh Nguyễn Văn D ở thôn Tr Chính, xã Hoạt Giang, huyện Hà Tr để chơi, uống nước, cùng đến nhà anh D còn có anh Đỗ Hùng Tr, Nguyễn M Đ. Sau khi đến nhà anh D được một lúc thì Trương Văn H hỏi mượn anh Tr 100.000đ thì anh Tr đồng ý. Lúc này anh Tr ra vị trí chiếc xe máy của mình là chiếc xe nhãn hiệu Vision, BKS: 36B4-77277, mở cốp xe máy lấy và đưa cho H 100.000đ rồi để ví vào trong cốp xe máy sau đó đi vào nhà anh D ngồi uống nước nói chuyện. Quá trình anh Tr mở cốp xe lấy tiền cho H vay thì H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản là chiếc ví của anh Tr để lấy tiền tiêu xài. Sau khi anh Tr đi vào nhà anh D thì H đi đến vị trí chiếc xe của anh Tr rồi dùng tay móc vào trong cốp xe máy của anh Tr lấy được chiếc ví da màu nâu. Khi H đang thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì M ra sân và nhìn thấy hành vi trộm cắp tài sản của H nhưng M không phản ứng gì. Sau khi H lấy được chiếc ví thì M đi ra ngoài ngõ cùng H và kiểm tra tài sản trong ví thì phát hiện có số tiền 200.000đ, cùng 01 thẻ ngân hàng Viettinbank, 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Đỗ Hùng Tr. Lúc này, M và H bàn với nhau đem thẻ ngân hàng của anh Tr ra cây ATM ở thị xã Bỉm Sơn để kiểm tra xem có tiền trong thẻ hay không để rút trộm tiền và sử dụng ngày tháng năm sinh trên căn cước công dân của anh Tr làm mật khẩu. Rồi M điều khiển xe máy BKS: 36B4-965.63, chở H ngồi ở phía sau đi đến cây ATM của Ngân hàng Viettin bank ở khu vực ngã tư năm tầng thuộc phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa để kiểm tra thẻ. Sau khi M cầm thẻ đi vào cây ATM và đưa thẻ vào cây ATM, H ở phía sau đọc mật khẩu cho M là ngày tháng năm sinh của anh Tr “071293” thì mở được mật khẩu. M và H kiểm tra tài khoản thì phát hiện số tiền có trong tài khoản ngân hàng của anh Tr có hơn 16 triệu đồng. Lúc này H bảo M không rút tiền ở đây mà đợi thêm một lúc để xem tình hình thế nào, xem việc H lấy trộm chiếc ví của anh Tr, anh Tr đã biết chưa để đối phó. Rồi H bảo M chạy xe quanh khu vực thị xã Bỉm Sơn, đến khoảng 23 giờ 30 phút H bảo M đi rút tiền, khi đó cả hai đi đến cây ATM trước cửa Ngân hàng Viettin Bank Chi nhánh Bỉm Sơn thuộc phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. M cầm thẻ đi vào cây ATM, H đứng phía sau, M nhập mật khẩu rồi rút 5.000.000đ, khi M rút số tiền nói trên thì hệ thống ngân hàng gửi tin nhắn đến số thuê bao của anh Tr thì lúc này anh Tr mới kiểm tra cốp xe và phát hiện bị mất trộm chiếc ví da. Lúc này M tiếp tục rút thêm số tiền: 5.000.000đ trong thẻ Ngân hàng thì anh Tr gọi điện cho Ngân hàng và yêu cầu khóa thẻ tài khoản. M và H tiếp tục rút lần thứ 3 nhưng lúc này tài khoản Ngân hàng đã bị khóa nên không rút được tiền. Sau khi rút số tiền 10.000.000đ, nghĩ là cây ATM hỏng nên M và H tiếp tục điều khiển xe máy đến cây ATM của Ngân hàng SacomBank trước cổng công ty VEAM thuộc phường Bắc Sơn, Thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục rút số tiền còn lại nhưng khi đưa thẻ vào thì bị Ngân hàng giữ lại thẻ (cây ATM tự động nút thẻ) và không rút được tiền. Sau đó, M và H điều khiển xe máy để đi về nhà ở xã Hoạt Giang, huyện Hà Tr, tỉnh Thanh Hóa, khi đi đến khu vực Cầu mới thuộc địa phận Phường Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn thì cả hai bàn nhau cất giấu chiếc ví để tránh bị phát hiện. Khi đó, M đứng ở trên đê sông Tam Điệp còn H bỏ chiếc ví vào trong túi Nilong (loại túi bim bim đã dùng) rồi giấu ở bụi cây. Sau đó cả hai ra Bỉm Sơn ăn uống, hát Karaoke hết 3.400.000đ, số tiền còn lại M và H chia nhau mỗi người 3.400.000đ rồi cả hai đi về nhà. Đến ngày 16/6/2020 Trương Văn H đã đến Công an huyện Hà Tr đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 23/6/2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hà Tr đã kết luận: 01 chiếc ví da màu nâu mà H trộm cắp có giá trị là 20.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 69/CT-VKS-HT ngày 10/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Tr, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Trương Văn H và Trương Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Tr giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm b, s (điểm i đối với M) khoản 1, (khoản 2 đối với H) Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Trương Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù; xử phạt Trương Văn M từ 06 tháng đến 09 tháng tù; về vật chứng tịch thu tiêu hủy chiếc 01 quần đùi, 01 áo phông, 02 chiếc dép màu trắng, 02 chiếc dép màu đem, bị hại không yêu cầu nên các bị cáo không phải bồi thường dân sự và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với các bị cáo.

Các bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm phát luật, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Tr, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Tr, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời gian theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo trương Văn H và Trương Văn M đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 13/6/2020, tại nhà anh Nguyễn Văn D ở thôn Tr Chính, xã Hoạt Giang, huyện Hà Tr. Trương Văn H đã trộm cắp tài sản của anh Đỗ Hùng Tr 01 ví da bên trong có 200.000đồng, 01 thẻ ATM do Ngân hàng Viettin bank phát hành trong thẻ có 16.342.86ng; 01 giấy phép lái xe; 01 căn cước công dân mang tên Đỗ Hùng Tr và cùng Trương Văn M đến cây ATM trước cửa ngân hàng Viettinbank chi nhánh Bỉm Sơn thuộc phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa rút được 10.000.000đồng (Mười triệu đồng), khi các bị cáo đang tiếp tục rút thì tài khoản bị khóa nên không tiếp tục thực hiện được hành vi trộm cắp. Nên tổng số tiền H và M phải chịu trách nhiệm hình sự là: 16.562.867đồng. Như vậy hành của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Quyền sở hữu tài sản luôn được pháp luật bảo vệ nhưng H và M đã không bỏ sức lao động chân chính để có được, lợi dụng ban đêm, anh Tr không quản lý trông coi tài sản nên H đã lén lút trộm cắp 01 ví da bên trong có tiền, thẻ ngân hàng, sau đó cùng M đi rút tiền nhằm mục đích chi tiêu cá nhân. Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nguy hiểm, táo tợn, gây hoang mang tâm lý trong nhân dân và gây mất trật tự xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Là vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. H là người trực tiếp trộm chiếc ví, M biết H trộm cắp ví, nên cả hai đều thống nhất đi rút tiền trong thẻ ATM, cả H và M đều trực tiếp thực hiện việc rút tiền. Nên mức hình phạt H cao hơn M.

[4]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Cả hai bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Đi với H, nhân thân bị cáo vào ngày 25/11/2015 bị Tòa án nhân dân TP. Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2017. Nay đã được xóa án tích, đây thể hiện việc không chịu tu dưỡng bản thân, xem thường pháp luật, nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, đối với H sau khi phạm tội đã đầu thú, đối với M phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền các bị cáo trộm cắp đã được gia đình trả toàn bộ cho anh Tr và tại phiên tòa anh Tr xin giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo. Nên cần áp dụng điểm s (điểm i đối với M) khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Nên cần xử cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là cần thiết.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Đi với số tiền các bị cáo chiếm đoạt. Trong quá trình điều tra mẹ của Trương Văn M và mẹ của Trương Văn H đã tự nguyện giao nộp chơ Cơ quan CSĐT số tiền: 10.200.000đ. Anh Tr có đơn xin nhận lại tài sản hợp pháp của mình nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Tr đã trả lại cho anh Đỗ Hùng Tr: 01 chiếc ví da màu nâu; 01 thẻ ngân hàng Viettin bank; 01 giấy phép lái xe; 01 căn cước công dân và 01 vỏ sim điện thoại Vietnambobile, số tiền: 10.200.000đồng. Sau khi nhận lại tài sản anh Tr không có ý kiến, thắc mắc gì thêm và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Nên miễn xét.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Đi với chiếc xe mô tô BKS 36B4-96563 mà Trương Văn H và Trương Văn M sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội là chiếc xe mà M mượn của bố đẻ là ông Trương Văn S. Ông S không biết M sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Tr đã trả lại chiếc xe máy cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Trương Văn S là chính xác.

Đi với: 01 Quần đùi màu đen, dài 40cm, đai quần màu vàng rộng 30cm; 01 Áo phông màu đen, đã qua sử dụng, trước ngực áo và phía sau áo in hình con hổ, mặt trong áo trơn, không in hình, dài 57cm, rộng 40cm; 02 Chiếc dép màu trắng, loại dép tổ ong, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 25cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 10cm; 02 Chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 24cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 10cm. Đây là tài sản các bị cáo sử dụng trên người khi thực hiện phạm tội, Cơ qua điều tra thu giữ để đối chiếu hình ảnh nhận dạng tại cây ATM. Hiện nay đã cũ không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm s (điểm i cho M) khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Về tội danh: Bị cáo Trương Văn H và Trương Văn M, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về mức hình phạt:

Xử phạt bị cáo Trương Văn H: 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 16/6/2020.

Xử phạt bị cáo Trương Văn M: 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 16/6/2020.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu huỷ 01 Quần đùi màu đen, dài 40cm, đai quần màu vàng rộng 30cm; 01 Áo phông màu đen, đã qua sử dụng, trước ngực áo và phía sau áo in hình con hổ, mặt trong áo trơn, không in hình, dài 57cm, rộng 40cm; 02 Chiếc dép màu trắng, loại dép tổ ong, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 25cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 10cm; 02 Chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 24cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 10cm. (Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Tr theo biên bản giao nhận ngày 26/8/2020).

- Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Trương Văn H và Trương Văn M, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về