Bản án 64/2020/HS-ST ngày 03/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 03/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2020, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 54/2020/HSST ngày 08 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn V, tên gọi khác: Không, sinh ngày 06/10/1995 tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Tổ 23, khu 7, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân T (Đã chết) và bà Trần Thị V, chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 23/3/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, có mặt.

- Người chứng kiến:

Anh Bùi Văn M, sinh năm 1979; nơi cư trú: Tổ 4, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1955, nơi cư trú: Tổ 4, khu Đ, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 23/3/2020, Công an thành phố Uông Bí trong khi làm nhiệm vụ tại tổ 2, khu L, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Tuấn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của V 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2 x 3)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của V 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng gắn sim số 0383.221.995; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 14Y1-228. và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tuấn V.

Bản kết luận giám định số: 292/KLGĐ ngày 26/3/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng: 0,321gam (không phẩy ba hai một gam).

Quá trình điều tra Nguyễn Tuấn V khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 23/3/2020, Việt đang ở nhà thì C (là bạn xã hội, V không rõ địa chỉ, nơi cư trú) rủ mua ma túy về sử dụng, V đồng ý. Do V và C đều không có tiền nên C điện thoại cho người quen thường mua ma túy để mua chịu. Sau đó, V nhận được điện thoại của của người đàn ông không quen biết bảo V mang thẻ căn cước công dân để cầm cố. Vi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14Y1-228. đi theo sự chỉ dẫn của của người này đến một ngõ nhỏ bên cạnh bờ tường rào của Trường Cao đẳng Công nghiệp và xây dựng Quảng Ninh, đến nơi V gặp người đàn ông không quen biết, V đưa thẻ căn cước và được người đàn ông đưa cho 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2 x 3)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, xác định là ma túy đá, V cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về đến đoạn đường thuộc tổ 2, khu L, phường P thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số: 56/CT-VKSUB ngày 08/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Nguyễn Tuấn V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố; đề nghị xét xử bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, với mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/3/2020; không đề nghị hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng số ma túy hoàn lại sau giám định theo niêm phong số 292/KLGĐ và 01 sim số 0383.221.995; đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội nên không tranh luận; không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về trình tự thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn V khai nhận: Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 23/3/2020, tại tổ 2, khu L, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon màu trắng kích thước (2 x 3)cm là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng: 0,321gam mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 55 phút ngày 23/3/2020 và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 14 giờ 55 phút cùng ngày; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến anh Bùi Văn M và ông Nguyễn Hữu L; phù hợp với Kết luận giám định số:

292/KLGĐ ngày 26/3/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng: 0,321gam (không phẩy ba hai một gam).

Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon màu trắng kích thước (2 x 3)cm là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng: 0,321gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang vào hồi 15 giờ 40 phút ngày 23/3/2020, tại tổ 2, khu L, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản Cáo trạng số: 56/CT-VKSUB ngày 08/5/2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố đối với bị cáo và các đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và gây mất an ninh trật tự tại địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay, tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho xã hội, gây nguy hại đến sức khỏe, đời sống của con người, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cho người sử dụng và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác.

Xét nhân thân của bị cáo cho thấy: Bị cáo là người trưởng thành có nhận thức xã hội và nhận thức pháp luật, nhưng không tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân, thường xuyên sử dụng ma túy nên đã tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng, là thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa và quá trình điều tra bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về hình phạt:

Sau khi xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hộ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần phải xử phạt với một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng và các vấn đề khác:

Số ma túy được hoàn lại sau giám định trong niêm phong số: 292/KLGĐ là vật cấm tàng trữ lưu hành và 01 sim số 0383.221.xxx liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với chiếc 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 14Y1-228. là của bà Trần Thị V (mẹ đẻ của bị cáo) và chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tuấn V Cơ quan điều tra đã xử lý đã quyết định trả lại cho bà V tại giai đoạn điều tra nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Đối với đối tượng tên C và đối tượng bán ma túy cho V, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không đề cập xử lý.

[5]. Về án phí:

Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/3/2020.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 292/KLGĐ và 01 sim số 0383.221.xxx;

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng;

Tình trạng các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, ngày 20/5/2020.

Bị cáo Nguyễn Tuấn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 03/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về