Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2020/ TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Anh Tăng Văn T, sinh năm 1980. (Vắng mặt).

Trú tại: Số 7/340, ấp Biển Tây A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Chị Sơn Thị H, sinh năm 1980. (Vắng mặt).

Trú tại: Số 7/340, ấp Biển Tây A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Tăng Văn T trình bày: Anh và chị Sơn Thị H quen biết nhau hoàn toàn tự nguyện và tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 31/3/2005. Thời gian chung sống vợ chồng ban đầu cũng hạnh phúc, nhưng sau khi có 02 đứa con thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn vào khoảng năm 2010 khi Hương đòi đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh và khoảng 10 năm nay thì tôi và Hương không sống chung với nhau. Nay tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với Sơn Thị H.

Về con chung: thời gian chung sống vợ chồng có 02 đứa con chung là Tăng Thị Bích T, sinh ngày 14/7/2003 và Tăng Trung T1, sinh ngày 21/12/2004, hiện nay các con đều sống với anh. Khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng các cháu; không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và không ai nợ tài sản gì của vợ chồng, nên anh Tăng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn chị Sơn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án.

Tại Biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 21/8/2020 thì anh Tăng Văn T vẫn giữ nguyên yêu cầu, ý kiến của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung: Anh T và chị H chung sống vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đây là hôn nhân là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng đến nay đã xảy ra mâu thuẫn không hàn gắn được, anh, chị cũng đã sống ly thân một thời gian dài, nên có căn cứ để chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T.

Về con chung: Hiện nay 02 đứa con chung là Tăng Thị Bích T, sinh ngày 14/7/2003 và Tăng Trung T1, sinh ngày 21/12/2004, đang sống cùng với anh T; anh T và các cháu cũng muốn tiếp tục sống cùng anh T, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao anh T nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung.

Về tài sản chung và nợ chung không có nên không đặt ra giải quyết.

- Về án phí hôn nhân gia đình: Anh Tăng Văn T phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu về việc tuân theo pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền: Anh Tăng Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Sơn Thị H có địa chỉ hiện nay tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Theo quy định tại Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu.

[2] Về thủ tục: Nguyên đơn anh Tăng Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 25/8/2020 nộp tại Tòa án, xét thấy đơn xin xét xử vắng mặt của anh T hoàn toàn tự nguyện và không trái với pháp luật, nên được chấp nhận. Chị Sơn Thị H đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập xét xử ngày 04/9/2020 và ngày hôm nay (ngày 24/9/2020) nhưng chị H không đến Tòa án, nên không thể tiến hành hòa giải. Căn cứ vào các Điều 207, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không thể tiến hành hòa giải, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về nội dung khởi kiện: Nguyên đơn anh Tăng Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Sơn Thị H.

[3.1] Xét về quan hệ hôn nhân: Anh Tăng Văn T và chị Sơn Thị H quen biết nhau hoàn toàn tự nguyện và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 31/3/2005. Nên hôn nhân giữa anh Tăng Văn T và chị Sơn Thị H là hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Anh Tăng Văn T cho rằng thời gian chung sống vợ chồng ban đầu cũng hạnh phúc, nhưng sau khi có 02 đứa con thì Hương đòi đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng năm 2010, khi đứa con lớn vào học lớp 1 và từ đó khoảng 10 năm nay thì anh T và chị H không sống chung với nhau. Anh T xác định mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng anh T và chị H đã không có biện pháp giải quyết mà lựa chọn không sống chung nhau với nhau một thời gian dài và trong khoảng thời gian không sống chung cả hai đều không có biện pháp hàn gắn, càng làm cho mâu thuẫn càng lớn thêm, thậm chí Tòa án triệu tập chị H đến Tòa án để tiến hành hòa giải, nhưng chị H cố tình không đến Tòa án theo triệu tập. Nhận thấy, mâu thuẫn giữa anh T và chị H đã nghiêm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T là phù hợp.

[3.2] Về con chung: Anh Tăng Văn T xác định vợ chồng có 02 đứa con chung là Tăng Thị Bích T, sinh ngày 14/7/2003 và Tăng Trung T1, sinh ngày 21/12/2004, hiện nay các con đều sống với anh T. Khi ly hôn thì anh T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 đứa con chung.

Theo Biên bản ghi lời khai các cháu Tăng Thị Bích T và cháu Tăng Trung T1 cùng ngày 04/8/2020 thì đều có yêu cầu được tiếp tục sống cùng anh T. Tại Biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thì anh T cũng đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cả 02 người con chung và tại Biên bản xác minh ngày 12/8/2020 địa phương nơi anh T và chị H sinh sống cũng xác định 02 đứa con đã sống cùng anh T 10 năm nay. Hội đồng xét xử xét thấy các cháu Tuyền và cháu Tánh hiện đang sống cùng với anh T, để không làm xáo trộn đời sống của các cháu, cũng như ý kiến của các cháu muốn cùng tiếp tục sống với anh T, nên cần tiếp tục giao cháu Tăng Thị Bích T và cháu Tăng Trung T1 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của anh T, không đặt ra giải quyết. [3.3] Về tài sản chung: Anh Tăng Văn T xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[3.4] Về nợ chung: Anh Tăng Văn T xác định vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và cũng không ai nợ tài sản gì của vợ chồng nên không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình anh Tăng Văn T phải nộp theo quy định pháp luật.

Từ những phân tích trên, xét thấy đề nghị của đạ i diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 207, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1./ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Tăng Văn T được ly hôn với chị Sơn Thị H.

2/. Về con chung: Giao 02 đứa con chung là Tăng Thị Bích T, sinh ngày 14/7/2003 và Tăng Trung T1, sinh ngày 21/12/2004 cho anh Tăng Văn T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Các cháu Tăng Thị Bích T và Tăng Trung T1 đang sống cùng anh T nên được giữ nguyên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Tăng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử ghi nhận không đặt ra giải quyết.

3/. Về tài sản chung: Anh Tăng Văn T xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về nợ chung: Anh Tăng Văn T xác định vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và cũng không ai nợ tài sản gì của vợ chồng nên không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5/. Về án phí: Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình anh Tăng Văn T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), anh Tăng Văn T đã dự nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006985 ngày 24/7/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

Án sơ thẩm xử công khai, anh Tăng Văn T, chị Sơn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về