Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 17/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2020, giữa:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Kiều Cẩm L; Sinh năm: 1993 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện N, tỉnh Q.

Bị đơn: Anh Trần Oai Ch; Sinh năm: 1992 (Vắng mặt không lý do).

Địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 26/02/2020, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Huỳnh Kiều Cam L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Trần Oai Ch kết hôn vào ngày 30/10/2017, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q. Trong quá trình chung sống hạnh phúc được thời gian đầu về sau thì phát sinh mâu thuẫn, chị và anh Ch thường xuyên cãi vã. Anh Ch không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, nhiều lần đánh đập chị. Nay, chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Oai Ch.

Về con chung: Chị L và anh Ch có 01 con chung là cháu Trần Viết Kh, sinh ngày 05/2/2018. Khi ly hôn chị L mong muốn được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con đến tuổi trưởng thành. Chị Lệ không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05/5/2020 và tại phiên hòa giải lần thứ nhất ngày 05/5/2020, bị đơn anh Trần Oai Chương trình bày: Anh và chị L kết hôn vào ngày 30/10/2017 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Q. Trong quá trình chung sống do con còn nhỏ nên vợ xin về nhà mẹ ruột ở để có người phụ giúp, giữ con. Từ khi chị L về nhà mẹ ruột, vợ chồng xa nhau nên phát sinh mâu thuẫn, chị Lệ không coi chồng ra gì và làm những việc mà anh không đồng ý. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh thì anh không đồng ý, anh cũng yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị được đoàn tụ để con cái có cha, có mẹ.

Tại phiên hòa giải lần thứ hai ngày 18/5/2020, Tòa án đã triệu tập và thông báo cho anh Ch nhưng anh Trần Oai Ch vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án đã lập biên bản về sự vắng mặt này và tiến hành xác minh tại địa phương, nơi cư trú và tại nhà cha mẹ ruột anh Trần Oai Ch và tống đạt, niêm yết các thủ tục tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, anh Ch đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn váng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Ch theo thủ tục chung.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện H đã xác định quan hệ tranh chấp, thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa đã được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; quyền, lợi ích của các đương sự được bảo đảm.

Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn hôn nhân giữa các đương sự là có thật; Chị L và anh Ch không chung sống với nhau hơn 06 tháng, không thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 5 Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận việc ly hôn giữa chị L và anh Ch; Giao con chung là Trần Viết Kh, sinh ngày 05/2/2018 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành và anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị L không yêu cầu. Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn khởi kiện của chị Huỳnh Kiều Cẩm L về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với anh Trần Oai Ch đảm bảo hình thức, nội dung quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Trần Oai Ch cư trú tại thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Q nên Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Kiều Cẩm L và anh Trần Oai Ch chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q. Việc kết hôn của chị L và anh Ch đảm bảo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên được thừa nhận và làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Cuộc sống chung hạnh phúc được hơn hai năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Ch không chăm lo làm ăn, chăm lo cho vợ con, gia đình, nhiều lần đánh đập chị L dẫn đến hôn nhân giữa hai vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể hàn gắn được và ly thân từ đó.

Tại phiên tòa, anh Ch vắng mặt nhưng lời khai của chị L phù hợp với các biên bản xác minh Tòa án với Tư pháp xã B, thôn trưởng noi anh Ch sinh sống cung cấp thông tin như sau: Anh Ch và chị L thường xuyên cãi vã, anh Ch có đánh đập chị L, hiện tại chị L đã về nhà cha mẹ ruột tại huyện N sinh sống.

Biên bản xác minh đối với ông Trần Ng ngày 21/5/2020 là cha ruột của anh Trần Oai Ch cung cấp thông tin như sau: Chị L và anh Ch mâu thuẫn trong cuộc sống thường ngày, hay cãi vã, xích mích, hiện tại đã ly thân, chị L đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Ông cũng mong muốn cho vợ chồng anh Ch và chị L được ly hôn, để L có thời gian làm ăn nuôi con, còn Ch ổn định công việc làm ăn.

Trong thời gian ly thân nhau, anh Ch có vào huyện N thăm vợ con nhưng lại gây gổ, đánh mẹ vợ là bà Trần Thị V và đánh chị L bị Công an xã lập biên bản.

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án nhận thấy vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất cho chị Huỳnh Kiều cấm L được ly hôn với anh Trần Oai Ch.

[3] Về con chung: Chị Huỳnh Kiều Cẩm L và anh Trần Oai Ch có 01 con chung là Trần Viết Kh, sinh ngày 05/2/2018. Chị L yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu Kh đến khi cháu đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Trần Viết Kh đang sinh sống cùng mẹ tại xã T, huyện N, tỉnh Q có việc làm ổn định và anh Ch không có việc làm ổn định, nên tiếp tục giao cháu Kh cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp. Chấp nhận yêu cầu của của L, nhưng chị L không có quyền ngăn cản anh Ch thăm nom, giáo dục, chăm sóc con chung.

[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị L khai tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do anh Ch vắng mặt nên Tòa án không giải quyết, nếu sau này anh Ch có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Chị Huỳnh Kiều Cẩm L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh Ch không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 5 Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn Cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 ban hành ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Kiều Cẩm L đối với anh Trần Oai Ch.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Kiều Cẩm L được ly hôn với anh Trần Oai Ch.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Viết Kh, sinh ngày 05/2/2018 cho chị Huỳnh Kiều Cẩm L trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị L không yêu cầu anh Chương phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Ch có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung: Đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Huỳnh Kiều cẩm L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0005159 ngày 26/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết, tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Đức - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về