Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 01/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN G

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 785/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 124/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mai K, sinh năm 1980.

Địa chỉ: số 572/8, khóm TK4, phường MH, thành phố LX, tỉnh AG. (Có đơn đề nghị vắng mặt) Bị đơn: Ông Trần Quang G, sinh năm 1977.

Địa chỉ: số 314/109, khóm ML, phường MP, thành phố LX, tỉnh AG. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 11 năm 2019, trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mai K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Bà Nguyễn Thị Mai K và ông Trần Quang G kết hôn vào năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường MH, thành phố LX, tỉnh An G. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì sống ly thân cho đến nay. Nguyên nhân chính là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong đời sống hôn nhân, ông G không quan tâm chăm sóc gia đình. Nay, tình cảm vợ chồng không còn, bà K không còn yêu thương gì đối với ông G, nên yêu cầu Tòa án xem xét cho bà được ly hôn với ông G.

Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung, vợ chồng có một con chung tên Trần Quang V, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2005. Bà K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà K và ông G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Quang G vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Mai K có đơn xét xử vắng mặt ngày 18 tháng 5 năm 2020; bị đơn ông Trần Quang G vắng mặt và không có ý kiến cung cấp cho Tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đún g tư cách đương sự, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thư ký phiên tòa, sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa. Đối với nguyên đơn bà K có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp quy định pháp luật. Riêng bị đơn ông G vắng mặt không đến Tòa án giải quyết là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của ông và phải chịu hậu quả theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự có trong hồ sơ vụ án: bà K và ông G đăng ký kết hôn năm 2005. Giữa bà K và ông G phát sinh mâu thuẫn, nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà K đối với ông G là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Về con chung, cháu Trần Quang V, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2005 hiện nay sống chung với bà K, được bà chăm lo tốt, có nơi ở ổn định nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà K được trực tiếp nuôi con chung. Về cấp dưỡng, bà K không yêu cầu ông G không cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bà Nguyễn Thị Mai K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn đề ngày 18 tháng 5 năm 2020. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà K là phù hợp quy định pháp luật.

Riêng đối với ông Trần Quang G, Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Trần Quang G không đến Tòa và vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông G.

[2] Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị Mai K và ông Trần Quang G trên cơ sở tự nguyện của cả hai, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường MH, thành phố LX, tỉnh AG theo Giấy chứng nhận kết hôn số 113/MH/2005 ngày 11 tháng 4 năm 2005, được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Nay, bà K và ông G phát sinh mâu thuẫn, bà K xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì sống ly thân cho đến nay. Nguyên nhân, do ông G không quan tâm chăm sóc vợ con, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Trong thời gian sống chung bà K luôn tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông G.

[4] Xét, hôn nhân giữa bà K và ông G mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Hiện nay, bà K không còn tình cảm với ông G, không yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ khó khăn trong cuộc sống và chăm lo hạnh phúc gia đình, chăm lo con cái. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2012. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông G vắng mặt, không trình ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà K tức là ông đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của ông đã được pháp luật quy định nên không có căn cứ xét yêu cầu của ông G. Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà K được ly hôn với ông G.

[6] Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có một con chung tên Trần Quang V, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2005 (nam). Hiện nay, con chung đang sống ổn định với bà K, được bà K chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt, nguyện vọng của cháu V mong muốn sống chung với bà K. Do đó, xét cần thiết phải giao con chung tên Trần Quang V cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng, bà K không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét, nếu có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác (nếu có).

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K cho rằng bà và ông G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông G cũng không có ý kiến cung cấp cho Tòa án về vấn đề này. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà K nộp tiền án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

Điều 8, Điều 9, Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 179; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Khoản 3 Điều 228, Điều 233, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mai K được ly hôn với ông Trần Quang G.

Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Mai K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trần Quang Vĩnh, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2005. Ông Trần Quang G không cấp dưỡng nuôi con chung do bà K không yêu cầu. Bà K phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông G được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con chung không cố định.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mai K và ông Trần Quang G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mai K nộp số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), trừ vào 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005910 ngày 16 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố LX, tỉnh AG.

Bà Nguyễn Thị Mai K, ông Trần Quang G được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của bà K, ông G.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 01/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về