Bản án 64/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyn Trung G; sinh năm 1982; Nơi sinh: tỉnh Tiền Giang; Đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Q, xã T, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: làm hồ; Trình độ văn hóa: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Dương Thị U; Bị cáo không có vợ, con;

Tiền án: không;

Tiền sự: ngày 09/8/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chưa thi hành.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 09/9/2019 chuyển tạm giam từ ngày 15/9/2019 đến nay và mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Lê Văn T, sinh năm 1997, Địa chỉ: ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang;

- Trần Trung N, sinh ngày 04/11/2003, Địa chỉ: ấp T, xã P, thị xã Cy, tỉnh Tiền Giang;

Người đại diện hợp pháp của Trần Trung N: ông Trương Văn Y, sinh năm 1964.

Địa chỉ: ấp T, xã P, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 09/9/2019 trên đường đi uống nước về, Nguyễn Trung G kêu Lê Văn Toán điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 63B2-734.39 chở G đến nhà Nguyễn Hoàng Phong ở khu vực chợ Thuộc Nhiêu thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền G để mua ma túy đá đem về sử dụng. Đến nơi G đưa 500.000 đồng qua khe cửa cho Phong rồi nhận 01 bịch ma túy bỏ vào túi áo bên phải và đi ra xe cho Toán chở về nhà Trần Trung Nghĩa tại ấp Tân Hòa, xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền G, lúc này có Lê Thanh Thoại là anh ruột của Toán. Sau đó Nghĩa lấy xe mô tô của Toán đưa G về nhà. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày G lấy 01 bịch ma túy ra chia thành 02 bịch và 01 đoạn ống nhựa tiếp tục cất giấu vào túi áo bên phải đi ngủ. Đến khoảng 8 giờ 30 phút cùng ngày thì bị đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy phối hợp với công an xã Tân Hội bắt quả tang G có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng trong vụ án thu giữ gồm:

- 02 bịch nylon được hàn kín, bên trong có chứa chất rắn màu trắng;

- 01 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong có chứa chất rắn màu trắng;

- 01 điện thoại Nokia trắng đen, kèm sim 0767.581.591;

- Tiền Việt nam 300.000 đồng.

- 01 hộp nhựa màu đen bên trong có 03 cái bậc lửa và 02 cái lưỡi lam.

Kết luận giám định số 162/KLGĐ-PC09, ngày 11/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: mẫu chất rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon, 01 đoạn ống nhựa gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4341 gam, loại methaphetamine.

Cáo trạng số 62/CT-VKSTXCL ngày 29/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy truy tố Nguyễn Trung G về tội : “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Nguyễn Trung G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo không tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: xin Hội đồng xét xử cho bị cáo cơ hội sớm về với gia đình.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Trung N, Lê văn T và đại diện hợp pháp Trương Văn Y vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân thị xã Cai Lậy giữ nguyên nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự:

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung G từ 12 tháng đến 18 tháng tù;

+ Tịch thu 01 điện thoại Nokia; tiêu hủy 01 bì thư niêm phong ký hiệu vụ số 162 ghi ngày 11/9/2019, 01 hộp nhựa màu đen bên trong có 03 cái bậc lửa (01 cái màu trắng, 02 cái màu xanh) và 02 cái lưỡi lam; trả lại cho bị cáo 300.000 đồng;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội danh:

Lời khai của bị cáo Nguyễn Trung G tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Cai Lậy lập ngày 09/9/2019.

Mẫu chất rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon và 01 đoạn ống nhựa thu giữ trong túi áo của bị cáo G được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang giám định xác định là ma túy có khối lượng 0,4341 gam, loại methaphetamine.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung G là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự địa phương.

Bị cáo Nguyễn Trung G là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà bị cáo cố ý thực hiện.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Trung G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy truy tố bị cáo Nguyễn Trung G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẫn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Xét về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Trung G đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không từ bỏ lại tiếp tục có hành hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng nên Hội đồng xét xử xác định bị cáo G không có ý thức chấp hành pháp luật, thuộc thành phần khó giáo dục.

[4] Thời gian qua tình hình nghiện hút, tiêm chích và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh thiếu niên, đang là mối quan tâm, lo lắng của toàn xã hội; ma túy đã làm băng hoại thân thể, nhân cách và giống nòi, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm. Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Trung G cần xử phạt nghiêm khắc để loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

Qua xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo Nguyễn Trung G ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giúp các bị cáo cải tự tạo bản thân thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật; qua đó nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Vật chứng thu giữ:

- 01 bì thư niêm phong ký hiệu vụ số 162 ghi ngày 11/9/2019 bên trong có chứa khối lượng ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại Nokia trắng đen, kèm sim 0767.581.591 bị cáo dùng để liên lạc mua chất ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tiền Việt Nam 300.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo G là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 hộp nhựa màu đen bên trong có 03 cái bậc lửa và 02 cái lưỡi lam là của bị cáo hiện không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy đã phân tích chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Trung G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo thực hiện; đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Hành vi của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Nguyễn Hoàng P có hành vi bán ma túy cho G nhưng qua xác minh Phong hiện không có mặt tại địa phương, những thành viên khác trong gia đình bỏ đi đâu không rõ nên đề nghị Cơ quan điều tra Công an thị xã Cai Lậy tiếp tục điều tra xử lý sau.

Lê Thanh T không có mặt tại địa phương nên đề nghị Cơ quan điều tra Công an thị xã Cai Lậy tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

 - Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung G 01 (một) năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/9/2019.

2/- Xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia trắng đen, kèm sim 0767.581.591.

- Tiêu hủy:

+ 01 bì thư niêm phong ký hiệu vụ số 162 ghi ngày 11/9/2019 có chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh Tường, Huỳnh Thị Diệu Hương, Đặng Nhựt Khuynh và dấu tròn Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang;

+ 01 hộp nhựa màu đen bên trong có 03 cái bậc lửa (01 cái màu trắng, 02 cái màu xanh) và 02 cái lưỡi lam.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trung G số tiền 300.000 đồng.

Các vật chứng nêu trên do Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/11/2019.

3/- Án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/- Quyền kháng cáo:

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền G xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về