Bản án 64/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 07/11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 59/2019/HSST ngày 06/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2019/QĐXXST-HS ngày 23/10/2019 đối với bị cáo.

HỒ MINH V - Sinh năm: 1983. Tại: Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT: khu phố 3, phường B, thành phố P, tỉnh B Chổ ở hiện nay: không cố định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Trình độ văn hoá: 3/12, Nghề nghiệp: thợ hồ.

Con ông: Hồ Lê D - 1963 và bà: Nguyễn Thị Kim C - 1964.

Gia đình có 03 anh, em ruột: lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1994.

Vợ: Nguyễn Thị Thu H – 1983. Vợ chồng có 01 người con sinh năm 2004.

+ Tiền án: Bản án số 162/2013/HSST ngày 13/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B tuyên phạt bị cáo V 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo V nộp 750.000 đồng tiền thu nhập bất hợp pháp. Bị cáo V chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2014.

+ Bản án số 104/2017/HSST ngày 25/8/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B tuyên phạt bị cáo V 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo V chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/10/2018, đến nay chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không.

Nhân thân: Bản án số 147/2019/HSST ngày 30/10/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B tuyên phạt bị cáo Vũ 03 năm 6 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp bị tạm giữ ngày 10/7/2019.

Chuyển tạm giam ngày 19/7/2019.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng:

- Người bị hại:

Trần Thanh T – 1982, trú: thôn V, xã H, huyện Hàm T, tỉnh B (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thị S – 1952. Trú: khu phố 8, phường Đ, TP.P, tỉnh B(có mặt).

-Người làm chứng:

1/Nguyễn văn T – 1991(vắng mặt).

2/Nguyễn Đình C – 1993(vắng mặt). Cùng trú: thôn V, xã H, huyện H, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đối với hành vi của bị cáo Hồ Minh V được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 09/7/2019, Hồ Minh V điều khiển xe mô tô biển số 86C1- 068.23 đi từ thành phố P đến xã H, huyện H và đi dọc theo đường ĐT707 theo hướng xã H đi xã M, huyện H. Đến khoảng 15 giờ 30 cùng ngày, khi đến tại khu vực thôn V, xã H thì V phát hiện phía bên tay trái đường hướng V đi có căn nhà của Trần Thanh T (sinh năm 1982, trú thôn V, xã H) đóng cửa, trước nhà có để các cuộn dây điện dùng thắp điện thanh long, không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Ngay lập tức, V dừng xe ven đường rồi đi bộ vào nhà của ông T, V quan sát xung quanh thấy không có người nên dùng tay bẻ rào thép B40 bao quanh hiên nhà tạo thành lỗ hổng để chui vào. Sau khi vào được hiên nhà, V lấy trộm 23 cuộn dây điện (gồm: 10 cuộn dây điện loại Cadisun 30 và 13 cuộn dây diện loại Cadivi 30, mỗi cuộn dài 100m) bỏ vào 03 bao tải màu đỏ (V lấy tại nơi để dây điện), sau đó đưa ra xe mô tô của mình và chở đi tiêu thụ. Trên đường đi thì V bị lực lượng Công an xã H, huyện H phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 31/2019-HĐĐG ngày 17/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Nam, kết luận 23 cuộn dây điện bị chiếm đoạt trị giá: 9.863.000 đồng (Chín triệu tám trăm sáu mươi ba ngàn đồng) * Vật chứng của vụ án:

03 bao tải màu đỏ chứa 23 cuộn dây diện đã qua sử dụng, xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giữ nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu Trần Thanh T.

Đối với xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 86C1-068.23 bị cáo V xác định mua lại của một người (không xác định được lai lịch). Quá trình điều tra xác định xe mô tô có biển số và số khung số máy là không cùng một xe, đồng thời chủ sở hữu xe mô tô biển số 86C1-068.23 xác định bị mất trộm nhưng không phải với đặc điểm và số khung số máy nêu trên, do đó xe mô tô trên hiện đang được Cơ quan điều tra tạm giữ tiếp tục xác minh làm rõ.

* Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông Trần Thanh T đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 61/CT-VKSngày 15/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam truy tố Hồ Minh V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam giữ quyền công tố luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Minh Vũ.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Hồ Minh V, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đề nghị xử phạt: Bị cáo Hồ Minh V từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm 6 tháng tù.

Vật chứng vụ án: Giao xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 86C1-068.23 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam tạm giữ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định.

Phần dân sự: xong.

Tại phiên tòa bị cáo thống nhất quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không tranh luận gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy trình của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện điều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Minh V khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; người làm chứng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định:

Khoảng 14 giờ ngày 09/7/2019, bị cáo Hồ Minh V điều khiển xe mô tô biển số 86C1-068.23 đi dọc theo đường ĐT707 theo hướng xã H đi xã M, huyện H. Đến khoảng 15 giờ 30 cùng ngày, khi đến tại khu vực thôn V, xã H thì bị cáo V phát hiện nhà của Trần Thanh T đóng cửa, trước nhà có để các cuộn dây điện dùng thắp điện thanh long, không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Ngay lập tức, bị cáo V dừng xe ven đường rồi đi bộ vào nhà của ông T, bị cáo dùng tay bẻ rào thép B40 bao quanh hiên nhà tạo thành lỗ hổng để chui vào và lấy trộm 23 cuộn dây điện (gồm: 10 cuộn dây điện loại Cadisun 30 và 13 cuộn dây diện loại Cadivi 30, mỗi cuộn dài 100m) bỏ vào 03 bao tải màu đỏ đưa ra xe mô tô chở đi tiêu thụ. Trên đường đi thì bị cáo Vũ bị lực lượng Công an xã H, huyện H phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 31/2019-HĐĐG ngày 17/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Nam, kết luận 23 cuộn dây điện bị chiếm đoạt trị giá: 9.863.000 đồng (Chín triệu tám trăm sáu mươi ba ngàn đồng) Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo Hồ Minh V là cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Hành vi của bị cáo Hồ Minh V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Vũ đã từng bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp “Tái phạm”, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt. Tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như nội dung cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Hồ Minh V là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo đã tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, thể hiện rõ xem thường pháp luật, chưa ăn năn hối cải, nên cần đưa ra xét xử nghiêm bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội, góp phần lập lại tình hình trật tự trị an ở địa phương.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như mức độ phạm tội của bị cáo để có mức hình phạt thích hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần áp dụng cho bị cáo.

[3]Vật chứng vụ án:

03 bao tải màu đỏ chứa 23 cuộn dây diện đã qua sử dụng, xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giữ nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu Trần Thanh T. Xét thấy đã xử lý xong.

Đối với xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 86C1-068.23 bị cáo Vũ xác định mua lại của một người (không xác định được lai lịch). Quá trình điều tra xác định xe mô tô có biển số và số khung số máy là không cùng một xe, đồng thời chủ sở hữu xe mô tô biển số 86C1-068.23 xác định bị mất trộm nhưng không phải với đặc điểm và số khung số máy nêu trên, do đó nghĩ nên giao xe mô tô trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam tạm giữ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định.

[4]Trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông Trần Thanh T đã nhận lại tài sản bị trộm cắp. Tại phiên tòa ông T vắng mặt. Tuy nhiên trong hồ sơ thể hiện ông đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất, không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị xét xử bị cáo theo pháp luật.

[5]Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

TUYÊN BỐ: bị cáo Hồ Minh V, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

XỬ PHẠT: Hồ Minh V 03(Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 10/7/2019.

Giao xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 86C1-068.23 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam tạm giữ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định.

Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hồ Minh V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07/11/2019). Người bị hại vắng mặt báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 64/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về