TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 253/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 về “ly hôn và tranh chấp nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M; trú tại: Thôn Ch Ch 2, xã Th Th, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Có đơn xin xử vắng mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ; trú tại: Thôn Ch Ch 2, xã Th Th, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày: Chị và anh Phạm Văn Đ kết hôn với nhau tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã Thắng Thủy, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 26-12-2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được đến tháng 7 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn giữa chị và gia đình nhà chồng. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 7 năm 2019, không quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Minh Khang, sinh ngày 12-5-2018. Hiện nay con chung đang ở với chị. Trường hợp ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị xin tự giải quyết với anh Đ.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Phạm Văn Đ xác nhận về thời gian, hoàn cảnh và điều kiện kết hôn như chị M trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được đến tháng 7 năm 2019 thì anh không hiểu lý do vì đâu chị M bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống. Vợ chồng sống ly thân với nhau từ đó, không quan tâm đến nhau. Nay chị M xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn nhưng nếu chị M cố tình thì anh chấp nhận. Nếu anh được nuôi con thì anh đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh xác nhận về con chung như chị M trình bày là đúng. Trường hợp ly hôn anh đề nghị giao con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng và anh không yêu cầu chị M phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Anh và chị M không có, không yêu cầu giải quyết.
Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thu thập chứng cứ cũng như các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành nghiêm yêu cầu của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh Phạm Văn Đ. Về con chung: Giao con chung Phạm Minh Khang, sinh ngày 12-5-2018 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con anh chị tự giải quyết. Tài sản chung không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Anh Phạm Văn Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Th Th, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn và tranh chấp nuôi con giữa chị Nguyễn Thị M và anh Phạm Văn Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị M có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng chị Nguyễn Thị M.
[2]. Về quan hệ vợ chồng: Quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị M và anh Phạm Văn Đ phát sinh từ ngày 26-12-2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thắng Thủy, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, mâu thuẫn giữa chị M và gia đình anh Đ. Nay hai bên đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị M yêu cầu được ly hôn; anh Đ có quan điểm nếu chị M cố tình xin ly hôn anh cũng chấp nhận, nếu anh được nuôi con thì anh cũng đồng ý ly hôn. Qua xác minh tại địa phương thấy vợ chồng có mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2019 không quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó có căn cứ để xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh Phạm Văn Đ theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Minh Khang, sinh ngày 12-5-2018. Ly hôn, hai bên cùng yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Tòa xét, cháu Phạm Minh Khang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của mẹ, chị M có chỗ ở và thu nhập ổn định. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu giải quyết về con của chị M là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con hai bên tự giải quyết.
[4].Về tài sản chung: Vợ chồng không có.
[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu án phí sơ thẩm dân sự về ly hôn là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Căn cứ Điều 147, 228, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Phạm Văn Đ.
2. Về con chung: Giao con chung Phạm Minh Khang, sinh ngày 12-5- 2018 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung anh chị tự giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Không xét giải quyết.
4. Án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Chị M đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ tại Biên lai thu số 7830 ngày 28-8-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo. Chị M đã nộp đủ án phí.
Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tuyên án, nguyên đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 64/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về