Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 12/12/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 260/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 305/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 201/2019/QĐST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Lê Thị Huyền T, sinh năm 1987 (Có mặt). HKTT: Ấp Trường Khánh 1, xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Đa chỉ hiện nay: khu vực 3, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm 1982 (Vắng mặt).

HKTT: Ấp Trường Khánh 1, xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Đa chỉ hiện nay:, khu vực 3, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/8/2019 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Lê Thị Hu yền T trình bày: Tôi và ông Trần Văn N chung sống với nhau và tiến tới hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang cấp theo giấy chứng nhận kết hôn số 235TP, quyển số 02/2005 vào ngày 27/12/2005.

Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chồng không lo cho gia đình, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cự cải. Chúng tôi đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không T. Hiện tại tôi và chồng tôi đã ly thân gần 01 năm nay.

Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Huyền T yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn N.

+ Về con chung: có 02 con chung là Trần Thu N (nữ); sinh ngày 06/12/2005; Trần T (nam); sinh ngày 25/7/2012. Hiện tại các cháu N và T đang sống chung với bà T. Khi ly hôn, bà T đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng hai con đến trưởng T, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Văn N: Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn tiếp tục vắng mặt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về sự có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải, xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông N đã thật sự nghiêm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Lê Thị Huyền T và ông Trần Văn N tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang cấp theo giấy chứng nhận kết hôn số 235TP, quyển số 02/2005 vào ngày 27/12/2005 cho nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, bà T và ông N phát sinh mâu thuẫn, bà T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử thấy rằng, quá trình chung sống giữa vợ chồng bà và ông N là có mâu thuẫn, vợ chồng ông, bà không thể tự hàn gắn và khi Tòa án động viên hòa giải cũng không đoàn tụ được. Tại phiên tòa hôm nay ông N tiếp tục vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà T và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà T, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cự cải cho nên bà xin ly hôn.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án, bà T xác nhận bà và ông N chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù bà đã nhiều lần cho ông N cơ hội để vợ chồng hàn gắn nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông N đã ly thân với nhau hơn 01 năm nay.

Mặt khác, ông N đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa bà T và ông N đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: ông, bà có có 02 con chung là Trần Thu N (nữ); sinh ngày 06/12/2005; Trần T (nam); sinh ngày 25/7/2012.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Tại bản tự khai ngày 04/11/2019 (BL 23) và bản tự khai ngày 17/10/2019 (BL 22) thì cháu T và cháu N có nguyện vọng sống với mẹ. Ngoài ra, hiện tại cháu T và cháu N đang sống chung với bà T. Bà T đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T và cháu N đến khi trưởng thành. Nhằm tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh thần cho cháu T và cháu N tránh làm xáo trộn cuộc sống của các cháu. Vì vậy, giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp quy định pháp luật và cũng đảm bảo cuộc sống cho các cháu. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng cho nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông N theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

Vì quyền và lợi ích mọi mặt của con chung. Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Huyền T khai là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lê Thị Huyền T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Đố i với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Khoản 3 Điều 82, khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Huyền T về việc ly hôn với ông Trần Văn N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Huyền T được ly hôn với ông Trần Văn N.

2. Về con chung: Có 02 con chung là Trần Thu N (nữ); sinh ngày 06/12/2005; Trần T (nam); sinh ngày 25/7/2012. Giao cháu T và cháu N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng T. Ghi nhận bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông Trần Văn N theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

Vì quyền và lợi ích mọi mặt của con chung. Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Huyền T phải chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp, theo biên lai thu số 005656 ngày 18/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự, quận C T án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Bà T đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 12/12/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về