Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 11/9/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 299/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/5/2019 về ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/8/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đỗ Khắc H, sinh năm 1971 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 5, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Chị Lê Thị H1, sinh năm 1971 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 5, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 24/4/2019, trong quá trình làm việc và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Đỗ Khắc H trình bày: Vào năm 1993, anh và chị Lê Thị H1 tự nguyện chung sống với nhau và đến năm 1994 đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị H1 không tôn trọng anh trước mặt bạn bè, thường so sánh anh với những người đàn ông khác nên từ đó vợ chồng hay cãi nhau. Năm 2017, anh đã nộp đơn ly hôn với chị H1 nhưng Tòa án không chấp nhận yêu cầu của anh vì cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn. Từ đó đến nay, vợ chồng anh không sống chung với nhau; anh có trở về nhà ăn Tết âm lịch 02 lần vào năm 2018 và 2019 (mỗi lần khoảng một tháng) để hàn gắn tình cảm với vợ con nhưng thấy không có kết quả. Nay anh thấy không còn tiình cảm với chị H1 nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 03 con chung tên là Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1994; Đỗ Thị Thùy L, sinh năm 1995 và Đỗ Thùy Linh G, sinh năm 1998. Cả ba con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động nên anh không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

* Trong quá trình làm việc, tại phiên tòa, bị đơn chị Lê Thị H1 trình bày:

Chị H1 thống nhất trình bày của anh H về điều kiện kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chị cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì, do anh H có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên mới đòi ly hôn với chị. Kể từ tháng 11 năm 2017, anh H và chị không sống chung với nhau. Vào dịp tết âm lịch năm 2018 và 2019, anh H có về nhà xin lỗi vợ con và ăn tết cùng gia đình sau đó lại bỏ đi. Trong thời gian về nhà ăn Tết, anh H vẫn nhắn tin qua lại với người phụ nữ khác, thỉnh thoảng đi qua đêm nhưng chị không biết đi đâu. Đến tháng 3 năm 2019 thì anh H bỏ đi cho tới nay, không quan tâm gì đến chị và các con. Nay anh H yêu cầu ly hôn thì chị không đồng ý vì chị vẫn còn tình cảm với anh H.

Về con chung: Cả 03 con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định pháp luật về tố tụng. Nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H, anh H được ly hôn với chị H1; Về con chung: đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không giải quyết; tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Anh Đỗ Khắc H có đơn khởi kiện ly hôn với chị Lê Thị H1, do đó xác định anh H là nguyên đơn, chị H1 là bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đỗ Khắc H và chị Lê Thị H1 tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau năm 1994 tại Ủy ban nhân dân xã T, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét yêu cầu của đương sự nhận thấy: Anh H yêu cầu được ly hôn, chị H1 không đồng ý ly hôn vì cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn. Tuy nhiên, cả anh H, chị H1 đều thừa nhận: từ tháng 3 năm 2019, vợ chồng anh chị đã không còn sống chung với nhau. Từ đó đến nay, hai vợ chồng không quan tâm, bỏ mặc cuộc sống của nhau. Như vậy, có cơ sở khẳng định tình trạng hôn nhân của anh Đỗ Khắc H và chị Lê Thị H1 mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Đỗ Khắc H theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Anh H, chị H1 có 03 con chung tên là Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1994; Đỗ Thị Thùy L, sinh năm 1995 và Đỗ Thùy Linh G, sinh năm 1998. Cả ba con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động nên không giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh H, chị H1 không yêu cầu nên không giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có nên không giải quyết.

[7] Về án phí: Anh Đỗ Khắc H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 5, 6,7, 8 của Luật Hôn và nhân gia đình năm 1986; Điều 56, 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đỗ Khắc H ly hôn chị Lê Thị H1.

2. Về con chung: 03 (ba) con chung tên là Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1994; Đỗ Thị Thùy L, sinh năm 1995 và Đỗ Thùy Linh G, sinh năm 1998 đều đủ 18 tuổi và có khả năng lao động nên không giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Anh Đỗ Khắc H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng)

tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007374 ngày 24/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành án phí.

Anh Đỗ Khắc H, chị Lê Thị H1 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về