Bản án 64/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 64/2018/HS-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Yên Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 68/2018/TLST-HS ngày 05/10/2018; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/QĐXXST- HS ngày 12/10/2018 đối với bị cáo:

Hoàng Văn Q, sinh năm 1991; nơi cư trú: Bản H, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (Học vấn): Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1971, bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2018 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00 phút, ngày 04 tháng 8 năm 2018 tại bản Keo M, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với Công an xã P, huyện Y phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang Hoàng Văn Q, Sinh năm 1991, trú tại: Bản H, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ số vật chứng gồm:

- 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 09 viên nén màu hồng, thu giữ tại tay phải của Hoàng Văn Quang.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA- 105, vỏ màu xanh, bàn phím màu đen, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Hoàng Văn Q.

Ngày 04 tháng 8 năm 2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Y phối hợp với Phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng tang vật thu giữ của Hoàng Văn Q.

- 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 09 viên nén màu hồng, có khối lượng 0,87 gam, trích ra 05 viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 0,48g, kí hiệu A gửi trưng cầu giám định chất ma túy tại phòng PC54- Công an tỉnh Sơn La. Số còn lại 0,39g kí hiệu Q nhập kho tang vật vụ án.

Ngày 04 tháng 8 năm 2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 743 trưng cầu mẫu gửi giám định có phải ma túy không? Loại ma túy gì? khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu?

Tại bản Kết luận giám định số: 940 ngày 09/8/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận Mẫu gửi giám định ký hiệu A là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,87 gam loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo Hoàng Văn Q khai nhận: Khoảng 22 giờ, ngày 03 tháng 8 năm 2018 Hoàng Văn Q mang theo số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) một mình đi bộ từ bản H, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La đến ngã ba bản Kim C1, xã P, huyện Y rồi đi hướng về bản Lao K, xã P, huyện Y đến cột mốc 235 vượt biên giới Việt- Lào đến bản Keo Lôm (Lào), mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại bản Keo Lôm (Lào), Q vào nhà của người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên tuổi, như thế nào, Q có hỏi người đàn ông đó có hồng phiến bán không? được người đàn ông đó trả lời là có, sau đó Q bảo người đàn ông đó bán cho 200.000đ (Hai trăm nghìn) hồng phiến, sau đó người đàn ông cầm tiền và đi vào trong phòng trong, một lúc sau lấy ra đưa cho Q một gói nilon màu trắng bên trong có 10 viên hồng phiến, Q lấy ra 01 viên hồng phiến sử dụng bằng hình thức đốt hít, còn 09 viên hồng phiến gói lại và cầm ở tay phải. Đến khoảng 01 giờ ngày 04/8/2018 Q đi bộ theo đường cũ về nhà, khi đến bản K, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo trình bày ý kiến giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại bản Cáo trạng số: 54/2018/CT- VKSYC ngày 04 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Q về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Văn Q từ 12 đến 18 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) Phong bì giấy màu trắng đã được niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng còn lại vụ Hoàng Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy thu ngày 04/8/2018, bên trong gồm mẫu Q = 0,39g; 01 phong bì niêm phong đã bóc mở + 01 mảnh giấy nilon màu trắng”, mặt sau phong bì ghi Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Lơn La, Giấy niêm phong ngày 04 tháng 8 năm 2018 và đầy đủ chữ ký, tên của các thành viên tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.

- Tạm giữ của bị cáo Hoàng Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA- 105, vỏ màu xanh, bàn phím màu đen, số IMEI1: 356943094485514, số IMEI2: 013720479726843, loại máy cũ đã qua sử dụng để đảm bảo công tác thi hành án phần án phí.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn Q khai nhận toàn bộ hanh vi pham tôi cua minh , như đã khai tại cơ quan Điêu tra , số hồng phiến (Methamphetamine) của bị cáo bị tổ công tác Công an huyện Y thu giữ có nguồn gốc là do mua của người đàn ông dân tộc Mông, quốc tịch Lào, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn Q do tổ công tác Công an huyện Y lập vào hồi 02 giờ 30 phút ngày 04/8/2018, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số: 940 ngày 09/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu A là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,87 gam loại Methamphetamine nằm trong danh mục II, Stt: 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Hoàng Văn Q là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy, nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 04/8/2018 đã có hành vi tàng trữ 0,87 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày bị cáo có thái độ thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

3 Về hình phạt bổ sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

4 Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01(Một) Phong bì giấy màu trắng đã được niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng còn lại vụ Hoàng Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy thu ngày 04/8/2018, bên trong gồm mẫu Q = 0,39g; 01 phong bì niêm phong đã bóc mở + 01 mảnh giấy ni lon màu trắng”, mặt sau phong bì ghi Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 04 tháng 8 năm 2018 và đầy đủ chữ ký, tên của các thành viên tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y. Xét thấy đây là những vật cấm tàng trữ, lưu hành, khôngcó giá trị sử dụng, cần tiêu hủy là phù hợp với khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA- 105, vỏ màu xanh, bàn phím màu đen, số IMEI1: 356943094485514, số IMEI2: 013720479726843, loại máy cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, có giá trị không lớn và không liên quan đến việc phạm tội, do đó cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án phần án phí.

5 Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Ha trăm nghìn đồng) là phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

6 Về các vấn đề khác:

Theo lời khai của bị cáo Hoàng Văn Q đối với người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên tuổi, quốc tịch Lào đã bán ma túy. Nơi diễn ra việc mua bán ma túy (Methamphetamine) trên địa phận nước CHDCND Lào. Cơ quan điều tra Công an huyện Y chưa đủ cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính ngày 04/8/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản

2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) Phong bì giấy màu trắng đã được niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng còn lại vụ Hoàng Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy thu ngày 04/8/2018, bên trong gồm mẫu Q = 0,39g; 01 phong bì niêm phong đã bóc mở + 01 mảnh giấy nilon màu trắng”, mặt sau phong bì ghi Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 04 tháng 8 năm 2018 và đầy đủ chữ ký, tên của các thành viên tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.

- Tạm giữ của bị cáo Hoàng Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA- 105, vỏ màu xanh, bàn phím màu đen, số IMEI1: 356943094485514, số IMEI2: 013720479726843, loại máy cũ đã qua sử dụng để đảm bảo công tác thi hành án phần án phí.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Hoàng Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về