Bản án 64/2018/HS-ST ngày 13/08/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 64/2018/HS-ST NGÀY 13/08/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 13/8/2018 tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2018/HSST ngày 14/6/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Đình T; sinh ngày: 30/12/1990, tại huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn H2, xã E, huyện H, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 09/12; Cha: Trương Đình T, sinh năm: 1963; Mẹ: Nguyễn Thị Y, sinh năm: 1960; Vợ: Đặng Thị Kim N, sinh năm 1997; Hiện buôn bán và trú tại buôn H2, xã E, huyện H, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2013; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 17/4/2018 đến ngày 17/6/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào ngày 29/01/2018 có một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch gọi điện thoại cho Trương Đình T nhờ mua 160 quả pháo trứng và nói sẽ trả tiền công cho T, thì T đồng ý. Sau đó, T sử dụng chiếc điện thoại di động hiệu NOKIA 1280, màu xanh - đen, có số thuê bao 0972627227 gọi điện thoại cho một người đàn ông tên Tr (không rõ nhân thân lai lịch) ở huyện K hỏi mua 160 quả pháo trứng thì người này đồng ý bán với giá 33.000 đồng/1 quả pháo. Sau khi hỏi mua được pháo thì T gọi điện thoại lại cho người đã đặt mua pháo nói đưa số tiền 5.300.000 đồng, thì người này mang đến nhà Trọng ở buôn H2, xã E và đưa cho T. Sau khi nhận tiền, T gọi điện thoại hẹn gặp người bán pháo tại lô cao su thuộc địa phận thôn C, xã E. Tại đây, T đưa tiền cho người bán pháo và người này đã đưa cho T 160 quả pháo trứng như đã thỏa thuận trước. Sau đó, T điện thoại và hẹn người mua pháo đến khu vực nghĩa địa xã D để giao pháo. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày (29/01/2018), trong lúc T đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47D1-014.16 chở toàn bộ số pháo trên lưu thông trên đường liên xã, thuộc địa phận buôn S, xã D thì bị Tổ công tác phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện và tạm giữ tang vật là 160 quả pháo có khối lượng 6,7kg và phương tiện vận chuyển pháo là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1- 014.16. Sau khi điều tra, xác minh có dấu hiệu tội phạm, nên ngày 19/3/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã chuyển toàn bộ hồ sơ và tang vật đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H để xử lý theo thẩm quyền.

Tại kết luận giám định số: 1031/C45B ngày 26/02/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 160 vật dạng hình bóng đèn điện tròn dài 07cm, dán giấy bên ngoài màu nâu, phần đầu hình trụ tròn đường kính 2,5cm được nối với đoạn dây màu xanh, nửa dưới hình cầu đường kính 04cm, vỏ bên trong bằng nhựa, gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Trong mẫu vật có chứa thành phần thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã thu giữ gồm: 159 quả pháo còn lại sau giám định; 01 xe mô tô biển kiểm soát 47D1-014.16; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 003087, mang tên Trương Đình T; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280, màu xanh - đen, số IMEI: 351876/02/150134/9; 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972627227, đây là công cụ, phương tiện mà bị cáo Trương Đình T sử dụng vào việc phạm tội.

Quá trình điều tra đã xác định chiếc điện thoại hiệu NOKIA 1280 và chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47D1-014.16, nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS, màu trắng - nâu, chủ sở hữu là Trương Đình T. Vì vậy, cần tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại và chiếc xe mô tô có đặc điểm như trong biên bản thu giữ lưu tại hồ sơ vụ án. Đối với 159 quả pháo thì cần tiêu hủy theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 13 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện H để xét xử đối với bị cáo Trương Đình T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng để truy tố. Đại diện viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo, đồng thời giữ nguyên nội dung bản cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Trương Đình T mức hình phạt từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 đến 18 tháng. Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị giải quyết về xử lý vật chứng của vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập lưu tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trương Đình T đã có hành vi vận chuyển 160 quả pháo trứng, trọng lượng 6,7 kg không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc.

Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến trật tự quản lý của nhà nước về quản lý pháo nổ. Vì vậy, quyết định truy tố Viện kiểm sát nhân dân huyện H và lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo Trương Đình T về tội ”Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên cần chấp nhận. Tại Điều luật này quy định như sau:

Tại Điều 191 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232 ,234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:… c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam”.

[2]. Xét tính chất, mức độ phạm tội hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo biết rõ hành vi vận chuyển hàng cấm là vi phạm pháp luật nhưng vì coi thường pháp luật, nên vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Cần áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm nhằm trừng trị hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo thành người biết tôn trọng pháp luật, ngoài ra, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng đó là: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần để bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình là cũng đủ tính răn đe.

[4]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 159 quả pháo còn lại sau giám định; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển kiểm soát 47D1- 014.16; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 003087, mang tên Trương Đình T; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280, màu xanh - đen, số IMEI: 351876/02/150134/9; 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972627227, đây là công cụ, phương tiện mà bị cáo Trương Đình T sử dụng vào việc phạm tội.

[5]. Về án phí: Bị cáo Trương Đình T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố: Bị cáo Trương Đình T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

[2]. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự.

[3]. Tuyên xử: Bị cáo Trương Đình T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án (13/8/2018).

Trong thời gian thử thách giao bị cáo Trương Đình T cho Uỷ ban nhân dân xã E nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có nghĩa vụ phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã E trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

[4]. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của Luật Thi hành án hình sự và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Các biện pháp tư pháp khác:

[5]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 159 quả pháo còn lại sau giám định; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển kiểm soát 47D1-014.16; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280, màu xanh - đen, số IMEI: 351876/02/150134/9; tịch thu tiêu hủy 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 003087, mang tên Trương Đình T; 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972627227, đây là công cụ, phương tiện mà bị can Trương Đình T sử dụng vào việc phạm tội.

[6]. Về án phí: Bị cáo Trương Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

[7]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trương Đình T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2018/HS-ST ngày 13/08/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:64/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về