Bản án 64/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 64/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thụ lý số 362/2018/TLST-HNGĐ ngày 24/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 19/10/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1966.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Văn C, sinh năm 1971.

Đều có nơi cư trú: Xóm T, thôn P, xã S, thành phố B.

Các đương sự đều có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Văn C kết hôn năm 1992, đăng ký tại UBND xã Song Mai, thành phố Bắc Giang. Ông bà kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau ngay tại thôn Phúc Hạ, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang.

Từ khi kết hôn, vợ chồng chung sống đã không có hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, thậm chí xô sát nhau. Tuy nhiên, vì con cái, nên vợ chồng vẫn chung sống cùng nhau, tuy vẫn sống chung một nhà, nhưng vợ chồng đã sinh hoạt riêng từ bốn năm nay. Nay, ông thấy cuộc sống vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau, ông đề nghị Tòa án cho ly hôn bà Nguyễn Văn C.

- Về con chung: Ông bà có hai con chung là Nguyễn Thị Thuỳ Linh, sinh năm 1993 đã lập gia đình riêng và Nguyễn Thuỳ Dương, sinh ngày 11/4/2003. Ly hôn, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại, ông là giáo viên tại Trường THCS xã Song Mai, thành phố Bắc Giang. Lương hàng tháng 9.800.000 đồng đủ để đảm bảo cho cuộc sống của ông và con.

- Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nghĩa vụ chung về tài sản: Ông bà không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là bà Nguyễn Văn C trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn N kết hôn năm 1992, đăng ký tại UBND xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Ông bà kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn. Sau khi kết hôn ông bà về chung sống với nhau ngay tại xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Từ khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc. Nguyên nhân là do tính cách giữa hai vợ chồng không hợp nhau, từ đó cuộc sống vợ chồng thường xuyên có những mâu thuẫn, cãi vã. Tuy nhiên, bà vẫn nhẫn nhịn và góp ý với ông Nguyễn Văn N để vợ chồng cùng chung tay xây dựng hạnh phúc gia đình, nhưng ông Nguyễn Văn N lại không sửa chữa được. Từ khoảng 4 năm nay, vợ chồng ngày càng xa lánh nhau, tuy vẫn ở chung nhà nhưng ông bà đã ly thân, không còn sinh hoạt, không còn ăn uống chung với nhau. Tuy vợ chồng có nhiều điểm bất hòa nhưng bà không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Năm. Bà mong ông Năm suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ cùng nuôi dậy con cái trưởng thành.

- Về con chung: Ông bà có 02 con chung là Nguyễn Thị Thùy Linh, sinh năm 1993 và Nguyễn Thùy Dương, sinh ngày 11/4/2003. Hiện tại cháu Nguyễn Thuỳ Linh đã trưởng thành, có gia đình riêng. Cháu Nguyễn Thuỳ Dương hiện tại vẫn đang ở với cả hai vợ chồng. Về cháu Nguyễn Thuỳ Dương thì nếu ly hôn, bà sẽ để cháu tự quyết định, cháu mong muốn ở với ai thì người đó sẽ trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, ông bà tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Văn C giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không có tranh luận gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đề nghị: Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn N được ly hôn bà Nguyễn Văn C.

- Về con chung: Giao cho ông Nguyễn Văn N trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Thùy Dương, sinh ngày 11/4/2003. Bà Nguyễn Văn C có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: Ông Nguyễn Văn N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Văn C kết hôn năm 1992, đăng ký tại UBND xã Song Mai, thành phố Bắc Giang. Ông bà kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu, được cấp giấy chứng nhận kết hôn, nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

[3]. Về yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn N:

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận: Ngay từ thời gian đầu kết hôn, vợ chồng đã nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng có xảy ra cãi nhau, cuộc sống không có hạnh phúc. Ông bà đã sống ly thân nhau cách đây bốn năm, từ khi ly thân đến nay vợ chồng không ai quan tâm gì đến nhau. Điều này cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho ông Nguyễn Văn N được ly hôn bà Nguyễn Văn C.

[4]. Về con chung: Ông bà có 02 con chung là Nguyễn Thị Thùy Linh, sinh năm 1993 và Nguyễn Thùy Dương, sinh ngày 11/4/2003. Hiện tại cháu Nguyễn Thuỳ Linh đã trưởng thành, có gia đình riêng. Cháu Nguyễn Thuỳ Dương hiện tại vẫn đang ở với cả hai vợ chồng. Ông bà đều có quan điểm, khi ly hôn cháu Nguyễn Thuỳ Dương mong muốn được do ai trực tiếp nuôi dưỡng thì người đó sẽ trực tiếp nuôi dưỡng cháu. Cháu Nguyễn Thuỳ Dương bày tỏ quan điểm muốn ở với ông Nguyễn Văn N, nên cần giao cho ông Nguyễn Văn N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thuỳ Dương theo Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, ông bà tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Nguyễn Văn C có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

[5]. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Văn C không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Áp dụng điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn N được ly hôn bà Nguyễn Văn C

2. Về con chung: Giao cho ông Nguyễn Văn N trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Thùy Dương, sinh ngày 11/4/2003. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết.

Bà Nguyễn Văn C có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Ông Nguyễn Văn N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2012/07060 ngày 24/9/2018. Xác nhận ông Nguyễn Văn N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về