Bản án 64/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA –VŨNG TÀU

BẢN ÁN 64/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử công khai vụ án thụ lý số: 209/2017/TLST-HNGĐ ngày 22/5/2017 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/7/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2017/QĐST – HNGĐ ngày 11/8/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Dương Thị T, sinh năm 1996

Địa chỉ: Tổ 4, ấp C, xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt).

Bị đơn: Ông Dương Văn N, sinh năm 1991

Địa chỉ: Tổ 4, ấp C, xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Dương Thị T trình bày:

Bà và ông Dương Văn N qua một thời gian tìm hiểu thì đi đến hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 24/6/2014, giấy chứng nhận kết hôn số 40, quyển số 01/2004.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do ông N ham chơi, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không tìm thấy hạnh phúc khi chung sống. Từ năm 2017 đến nay bà và ông N đã sống ly thân, không ai quan tâm đến nhau. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông N nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông N.

Về con chung: Bà và ông N có 01 con chung là cháu Dương Thị Yến N, sinh ngày 21/12/2012. Hiện nay cháu N đang sống với bà. Khi ly hôn bà có nguyện vọng trực tiếp nuôi con đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Về bị đơn:

Theo kết quả xác minh tại Công an xã S, huyện Tân Thành thì ông Dương Văn N đang cư trú tại tổ 4, ấp C, xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tòa án nhân dân huyện Tân Thành đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Dương Văn N để tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông N vẫn cố tình vắng mặt, không tham gia tố tụng, không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành tham gia phiên tòa:

Qua nghiên cứu, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa dân sự sơ thẩm về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, thư ký, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố tụng thì thấy:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Đối với hội đồng xét xử tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ tại phiên tòa.

- Đối với nguyên đơn đã chấp hành tốt các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các đương sự hiện đang cư trú tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và tranh chấp giữa bà T, ông N là tranh chấp về ly hôn thuộc những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự

Ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham dự phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông N theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Dương Thị T và ông Dương Văn N là hợp pháp, cả hai đã tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo giấy chứng nhận kết hôn số 40, quyển số 01/2004.

Bà T và ông N chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do ông N ham chơi, không quan tâm vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã nên hôn nhân không hạnh phúc và đã ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay.

Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cần tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà T đối với ông N.

Về con chung: Bà T và ông N có 01 con chung là cháu Dương Thị Yến N, sinh ngày 21/12/2012. Bà T có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung đến tuổi trưởng thành (đủ18 tuổi), không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu N còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của bà T, mặt khác từ khi bà T và ông N sống ly thân thì cháu N trực tiếp sống với bà T, ông N không cấp dưỡng nuôi con. Do đó để bảo đảm sự phát triển bình thường cả về thể chất và tinh thần cho cháu N cần giao cháu N cho bà T nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật. Ông N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Tòa án không xem xét.

Về nợ chung: Không có.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Dương Thị T nộp án phí hôn nhân gia đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị T đối với ông Dương Văn N về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thị T được ly hôn với ông Dương Văn N.

Về con chung: Giao cháu Dương Thị Yến N, sinh ngày 21/12/2012 cho bà Dương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Ông Dương Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con. Các đương sự được quyền đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi cần thiết có thể thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con, người trực tiếp nuôi con hoặc có sự thay đổi khác.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Dương Thị T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003836 ngày 19/5/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Dương Thị T đã nộp đủ án phí.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/8/2017) nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về