Bản án 637/2019/HS-PT ngày 22/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 637/2019/HS-PT NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 447/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo La Châu T và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HSST ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. La Châu T, sinh ngày 15/8/1978 tại Bến Tre. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 2, thị trấn M, huyện M1, tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú: đường C, Phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Gia D (đã chết) và bà Bùi Thị Ngh; vợ, con: chưa; em ruột: có 04 người, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/12/2018. (có mặt)

2. La Ngọc T1, sinh ngày 28/3/1981 tại Bến Tre. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 2, thị trấn M, huyện M1, tinh Bến Tre. Nơi cư trú: đường Ng, Phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: tiếp viên du lịch; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Gia D (đã chết) và bà Bùi Thị Ngh; chồng đã chết; con: Phạm Sơn T, sinh ngày 16/11/2003; anh, chị em ruột: 04 người, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

3. La Gia Tr, sinh ngày 09/12/1987 tại Bến Tre. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 2, thị trấn M, huyện M1, tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú: đường số 7, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Gia D (đã chết) và bà Bùi Thị Ngh; vợ: Ngô Thị Thúy H, sinh năm 1989 là bị cáo trong vụ án này; con: La Trí Th, sinh ngày 17/3/2018; anh chị, em ruột: 04 người, bị cáo là con út trong gia đình; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/12/2018. (có mặt)

4. Ngô Thị Thúy H, sinh ngày 09/11/1989 tại Bến Tre. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: T1, P, huyện M1, tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú: đường số 7, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; chồng: La Gia Tr, sinh năm 1987 là bị cáo trong cùng vụ án này; con: La Trí Th, sinh ngày 17/3/2018; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo La Châu T: Luật sư Hứa Thanh K – Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)

- Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo La Châu T, La Ngọc T1, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H: Luật sư Lê Tr – Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)

- Người bị hại:

1. Chị Phạm Nguyễn Thùy Tr, sinh năm 1978. (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn M3, xã Nh, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

2. Chị Hoàng Thị V, sinh năm 1986. (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn Kh, xã Nh, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

- Người làm chứng: Anh Võ Hồng Ph, sinh năm 1991. (vắng mặt)

Nơi cư trú: đường A, phường T2, quận T3, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 8/2017 đến tháng 12/2017, La Châu T đã đứng ra tổ chức cho một nhóm đối tượng là nam giới (tự xưng là người nước ngoài) thông qua hệ thống mạng Zalo, Facebook làm quen và kết bạn với chị Phạm Nguyễn Thùy Tr và chị Hoàng Thị V. Sau khi kết bạn và làm quen, các đối tượng đã nhắn tin nói dối gửi hàng, tiền USD với số lượng lớn và nhờ các bị hại nhận giùm khi nào các đối tượng sang Việt Nam sẽ trả tiền công. Mặt khác, T còn tổ chức cho nhóm đối tượng là nữ giả danh là cán bộ hải quan sân bay T4 đứng ra gọi điện yêu cầu các bị hại chuyển tiền vào các tài khoản mà La Châu T và các đồng phạm đã lập sẵn để chiếm đoạt. Bên cạnh đó, La Châu T còn đứng ra tổ chức, chỉ đạo và chi tiền cho các em của mình là La Ngọc T1, La Gia Tr và Ngô Thị Thúy H đứng ra lập 37 tài khoản (thẻ ATM quốc tế Visa và Master) tại nhiều Ngân hàng khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như: Ngân hàng S, Ngân hàng T, Ngân hàng B, Ngân hàng V.

Khi mở tài khoản, La Châu T chỉ đạo cho các em của mình là La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H, La Ngọc T1 không sử dụng chứng minh nhân dân của mình để mở tài khoản mà mua lại chứng minh nhân dân của những người bị mất, bị thất lạc sau đó bóc ảnh trong chứng minh nhân dân vừa mua ra đồng thời dán ảnh của chính mình vào và đem ép plastic rồi mang đến các Ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để làm thủ tục mở tổng cộng 37 tài khoản khác nhau. Khi mở tài khoản, các bị cáo sử dụng sim điện thoại để mở tài khoản (trong đó có sử dụng dịch vụ nhắn tin thông báo số tiền nhận, số tiền rút và dịch vụ mobile banking để chuyển và rút tiền), riêng các sim rác các bị cáo vứt bỏ. Khi mở (đăng ký) tài khoản thành công, các bị cáo mang thẻ vào trụ ATM để kích hoạt thay đổi mật khẩu; nếu mật khẩu 4 số thì đổi thành “1985”, nếu mật khẩu 6 số thì đổi thành “081985”. Với phương pháp thủ đoạn nêu trên, các bị cáo đã mở thành công 37 tài khoản (thẻ ATM quốc tế Visa và Master) tại nhiều Ngân hàng khác nhau. Trong đó:

La Ngọc T1: Sử dụng 02 (hai) Chứng minh nhân dân mang tên Mai Anh Đ và Nguyễn Thúy A mở thành công 07 tài khoản (thẻ ATM) tại các Ngân hàng B, Ngân hàng T, Ngân hàng S và Ngân hàng V.

La Gia Tr sử dụng 05 (năm) Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn M, Võ Hồng Ph, Nguyễn Hữu C, Hồ Đắc H, Nguyễn Văn Th để mở thành công 10 tài khoản (thẻ ATM) tại Ngân hàng B và Ngân hàng T.

Ngô Thị Thúy H sử dụng 09 (chín) Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Ngọc T, Hồ Thị Trang Th, Nguyễn Thị Bích Ch, Nguyễn Trần Phuơng L, La Ngọc Ph, Nguyễn Thị Nguyệt V, Đoàn Thị Diễm K, Dương Thị Băng Ch mở thành công 20 tài khoản Quốc tế và 03 tài khoản trong nước tại các Ngân hàng T, S, B, Vietcombank.

Với phương pháp và thủ đoạn nêu trên, La Châu T và các đồng phạm đã lừa đảo và chiếm đoạt của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr và chị Hoàng Thị V với tổng số tiền 617.500.000 đồng, cụ thể như sau:

1. Đối với chị Phạm Nguyễn Thùy Tr:

Ngày 29/10/2017, thông qua mạng xã hội Zalo chị Phạm Nguyễn Thùy Tr nhắn tin và làm quen với một đàn ông tự xưng là TM người Anh, hiện đang làm việc tại Anh và một người đàn ông tự xưng là JE người Mỹ, làm việc tại Afganixtan.

Ngày 12/11/2017, đối tượng TM nói gửi tặng chị Tr một gói hàng trong đó có: giày dép, quần áo, đồ trang sức và 300.000 USD Mỹ; đối tượng JE nói gửi cho chị Tr một gói hàng trong đó có: 500 triệu USD Mỹ và nhờ chị Tr nhận và cất giữ giùm, khi nào TM và JE đến Việt Nam sẽ lấy hàng và trả tiền công, chi phí cho chị Tr. Nhận được tin nhắn chị Tr tưởng thật và đồng ý nhận giùm.

Ngày 14/11/2017, có một người phụ nữ tự xưng là cán bộ hải quan sân bay T4 gọi điện thoại đến và thông báo cho chị Tr đóng lệ phí để nhận hai thùng hàng.

Tưởng thật, nên chị Tr đã 08 lần gửi tiền vào các số tài khoản mà đối tượng yêu cầu với tổng số tiền 709.000.000 đồng (Bảy trăm lẻ chín triệu đồng), cụ thể như sau:

Lần 1: Ngày 14/11/2017, chị Tr gửi số tiền 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng) vào số tài khoản 19031520950013, chủ tài khoản là Võ Hồng Ph mở tại Ngân hàng T chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 2: Ngày 14/11/2017, chị Tr gửi số tiền 34.500.000 đồng (Ba mươi tư triệu năm trăm nghìn đồng) vào số tài khoản 19031520950013, chủ tài khoản là Võ Hồng Ph mở tại Ngân hàng T chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 3: Ngày 14/11/2017, chị Tr gửi số tiền 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng) vào số tài khoản 19031826457019, chủ tài khoản là Nguyễn Thùy A mở tại Ngân hàng T chi nhánh T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 4: Ngày 15/11/2017, chị Tr gửi số tiền 114.000.000 đồng (Một trăm mười bốn triệu đồng) vào số tài khoản 19031826457019, chủ tài khoản là Nguyễn Thùy A mở tại Ngân hàng T chi nhánh T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 5: Ngày 16/11/2017, chị Tr gửi số tiền 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng) vào số tài khoản 19031826457019, chủ tài khoản là Nguyễn Thùy A mở tại Ngân hàng T chi nhánh T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 6: Ngày 16/11/2017, chị Tr gửi số tiền 193.800.000 đồng (Một trăm chín mươi ba triệu tám trăm nghìn đồng) vào số tài khoản 19031750263228, chủ tài khoản là Phan Thị Hoài H mở tại Ngân hàng T chi nhánh T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 7: Ngày 27/11/2017, chị Tr gửi số tiền 22.700.000 đồng (Hai mươi hai triệu bảy trăm nghìn đồng) vào số tài khoản 050081 173025 chủ tài khoản là Nguyễn Đình Duy T mở tại Ngân hàng S chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 8: Ngày 01/12/2017, chị Tr gửi số tiền 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng) vào số tài khoản 060154214561, chủ tài khoản Nguyễn Thị Ngọc T mở tại Ngân hàng S chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Đối với chị Hoàng Thị V:

Thông qua mạng xã hội Facebook, chị Hoàng Thị V nhắn tin và làm quen với người đàn ông tự xưng là DL, là người Anh, hiện đang làm việc tại Đức.

Ngày 12/8/2017, đối tượng DL nhắn tin nói gửi tặng cho chị V một thùng hàng trong đó có: giày, dép, quần áo, đồ trang sức và 45.000USD nhờ chị V nhận giùm và cất giữ khi nào DL đến Việt Nam sẽ lấy hàng và trả tiền công, chi phí cho chị V, nhận được tin nhắn chị V đồng ý vì tưởng thật. Trong ngày 12/8/2017, có một người phụ nữ tự xưng là cán bộ hải quan sân bay T4 gọi điện thoại và thông báo cho chị V có một thùng hàng của DL gửi và yêu cầu chị V đóng lệ phí đế nhận hàng. Chị V tưởng thật nên đã gửi tiền vào các số tài khoản mà đối tượng yêu cầu 03 lần với tổng số tiền 125.000.000 đồng. Cụ thể:

Lần 1: Ngày 14/8/2017, chị V đã gửi số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) vào tài khoản số 19031432316010, chủ tài khoản là Hồ Thị Trang Th mở tại Ngân hàng T chi nhánh Võ Văn Ngân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lần 2: Ngày 15/8/2017, chị V đã gửi số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng) vào tài khoản số 17710000092838, chủ tài khoản là Mai Anh Đ mở tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư (Ngân hàng B) chi nhánh Trường Sơn.

Lần 3: Ngày 17/8/2017, chị V đã gửi số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) vào tài khoản số 18110000074767, chủ tài khoản là Nguyễn Văn M mở tại Ngân hàng B chi nhánh Cát Lái, Sài Gòn.

Tổng số tiền bị hại Phạm Nguyễn Thùy Tr và Hoàng Thị V bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt là 834.000.000 đồng (Tám trăm ba mươi bốn triệu đồng). Trong đó, Cơ quan điều tra đã chứng minh được các bị cáo La Châu T, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H, La Ngọc T1 đã lừa đảo chiếm đoạt của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr và Hoàng Thị V tổng số tiền là 617.500.000 đồng (trong đó của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr 492.500.000 đồng và của chị Hoàng Thị V 125.000.000 đồng). Riêng số tiền 216.500.000 đồng mà bị hại Tr chuyển vào tài khoản của Phạm Thị Hoài H và Nguyễn Đình Duy T hiện nay Cơ quan điều tra chưa chúng minh được ai là người lập các tài khoản này và chiếm đoạt số tiền của chị Tr vì vậy chưa có cơ sở căn cứ để xem xét kết luận.

Quá trình điều tra La Châu T trình bày bị cáo không phải là người đúng ra tổ chức thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Người đứng ra tổ chức là một người phụ nữ tên Th1 (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) có chồng là người Mỹ, sinh sống tại Campuchia rất giỏi công nghệ thông tin. Vợ chồng người phụ nữ tên Th1 rủ T tham gia thực hiện hành vi lập tài khoản ATM quốc tế để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nhận thức được việc mở các tài khoản ATM quốc tế là để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tuy nhiên vì hám lợi nên T vẫn thực hiện và rủ La Ngọc T1, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H cùng tham gia. Sau khi mở xong tài khoản T và các đồng phạm đã giao lại toàn bộ tài khoản và mật khẩu cho Th1 và được đối tượng tên Th1 trả tổng số tiền 9.000 USD và 89.575.000 đồng. Trong đó, T được hưởng là 3.000 USD và 63.575.000 đồng, La Gia Tr và Ngô Thị Thúy H được hưởng 6.000 USD và 7.000.000 đồng, La Ngọc T1 được hưởng 19.000.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không có cơ sở, căn cứ để chấp nhận lời khai của La Châu T. Vì vậy, La Châu T phải chịu trách nhiệm về việc đứng ra tổ chức thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 617.500.000 đồng của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr và chị Hoàng Thị V.

Cơ quan điều tra đã tiến hành Trưng cầu giám định chữ viết đối với La Ngọc T1, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H.

Tại Bản kết luận giám định số 36 ngày 08/01/2017 và Kết luận số 39 ngày 25/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận đã kết luận: “Chữ viết trong hợp đồng mở tài khoản Mai Anh Đ và tài khoản Nguyễn Thúy A là chữ viết của La Ngọc T1”.

Tại Bản kết luận giám định số 31 ngày 05/01/2019 và Kết luận số 07 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận đã kết luận: Chữ viết trong hợp đồng mở tài khoản Nguyễn Văn M và tài khoản Võ Hồng Ph là chữ viết của La Gia Tr”.

Tại Bản kết luận giám định số 12 ngày 29/11/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận và Kết luận số 1350 ngày 22/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: “Chữ viết trong hợp đồng mở tài khoản Hồ Thị Trang Th và tài khoản Nguyễn Ngọc T; Nguyễn Trần Phương L; Đoàn Thị Diễm K là chữ viết của Ngô Thị Thúy H”.

Như vậy, trong thời gian từ tháng 8/2017 đến tháng 12/2017, các bị cáo La Châu T, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H và La Ngọc T1 đã dùng thủ đoạn gian dối, lừa đảo chiếm đoạt được của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr và chị Hoàng Thị V tổng số tiền là 617.500.000 đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân (trong đó lừa đảo chiếm đoạt của chị Phạm Nguyễn Thùy Tr 492.500.000 đồng và lừa đảo chiếm đoạt của chị Hoàng Thị V 125.000.000 đồng).

Ngoài ra, với phương thức và thủ đoạn nêu trên, Cơ quan điều tra còn xác định La Châu T và Ngô Thị Thúy H còn có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với một số bị hại khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể:

Ngày 30/11/2017, chị Nguyễn Thị Ng - sinh năm 1990, trú tại đường số 7, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã nộp 119.000.000 đồng vào tại khoản thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị Ngọc T và Dương Thị Băng Ch. Hai số tài khoản này do Ngô Thị Thúy H trực tiếp mua chứng minh nhân dân và sử dụng các chứng minh nhân dân đã mua để mở tài khoản tại Ngân hàng T và Ngân hàng S sau đó giao cho La Châu T. Vụ việc này đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án và đang tiến hành điều tra.

Tháng 11/2017, chị Nguyễn Thị Lê Tr trú tại đường Ng, Phường 26, quận B5, Thành phố Hồ Chí Minh đã nộp 401.000.000 đồng vào tài khoản thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị Ngọc T và Nguyễn Thị Diễm K. Hai số tài khoản này do Ngô Thị Thúy H trực tiếp mua chứng minh nhân dân và sử dụng các chứng minh nhân dân đã mua để mở tài khoản tại Ngân hàng T và S sau đó giao cho La Châu T. Vụ việc này đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Phòng PC 03) khởi tố vụ án và đang tiến hành điều tra.

Trong năm 2017, Ngô Thị Thúy H có mở một tài khoản thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị Bích Ch. Sau khi mở xong tài khoản thì H giao lại toàn bộ tài khoản, mật khẩu cho La Châu T. Riêng một cái sim rác H giữ lại để sử dụng. Ngoài ra, cũng trong năm 2017, H có mở một tài khoản thẻ ATM mang tên Nguyễn Trần Phương L. Riêng tài khoản này H mở 02 thẻ ATM (trong đó có một thẻ ATM quốc tế và một thẻ ATM trong nước). Đối với thẻ ATM quốc tế H giao cho La Châu T, riêng thẻ ATM trong nước H giữ lại (vì T không lấy thẻ ATM trong nước). Toàn bộ hai chứng minh nhân dân nêu trên đều do Ngô Thị Thúy H trực tiếp đi mua về để sử dụng mở tài khoản. Quá trình sử dụng sim rác Ngô Thị Thúy H phát hiện có rất nhiều tin nhắn chuyển tiền vào tài khoản của Nguyễn Thị Bích Ch. H đã sử dụng dịch vụ mobibanking chuyển một phần tiền từ tài khoản Nguyễn Thị Bích Ch sang tài khoản của Nguyễn Trần Phương L; Sau đó H đã sử dụng thẻ ATM trong nước của Nguyễn Trần Phương L đem đến các trụ ATM tại Thành phố Hồ Chí Minh để rút được số tiền 268.300.000 đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân. Qúa trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được số tiền chuyển vào tài khoản nói trên là do bị lừa đảo hay một nguyên nhân khác và ai là bị hại trong vụ việc này vì vậy Cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra, xác minh. Khi nào xác định rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Riêng đối với tài khoản mang tên Phan Thị Hoài H và tài khoản mang tên Phan Đình Duy T. Qua điều tra xác định bị hại Phạm Nguyễn Thùy Tr (Nh, N) đã chuyển số tiền 216.500.000 đồng vào hai tài khoản này và bị các đối tượng chiếm đoạt. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành giám định nhưng không xác định được ai là người lập, làm và rút tiền từ hai tài khoản này. Vì vậy, Cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra, khi nào xác định được đối tượng sẽ đề nghị xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HSST ngày 05 tháng 7 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo La Châu T, La Ngọc T1, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Châu T 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/12/2018.

- Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Ngọc T1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ bắt giam thi hành án.

- Áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Gia Tr 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/12/2018.

- Áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị Thúy H 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/7/2019, bị cáo La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 17/7/2019, bị cáo La Châu T và La Gia Tr có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo La Châu T, La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H đã thay đổi yêu cầu kháng cáo, cho rằng các bị cáo bị oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo cho rằng mình bị oan; tuy nhiên bị cáo T thừa nhận có chỉ đạo cho các em bị cáo đi mua chứng minh nhân dân cũ và tiến hành mở tài khoản tại các ngân hàng để nhằm rút tiền của những người bị hại. Các bị cáo khác cũng thừa nhận bị cáo T là người chỉ đạo các bị cáo đi mua chứng minh nhân dân và mở tài khoản. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo T cho rằng mình không phải là chủ mưu, chỉ thực hiện theo sự chỉ đạo của người tên Th1 nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội; đồng thời áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo và xử phạt mức án phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo T trình bày: Bị cáo T cho rằng bị cáo bị oan nhưng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội danh là có căn cứ. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã khắc phục hậu quả, các bị cáo đều là anh chị em trong gia đình; từ đó giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người bào chữa theo yêu cầu cho các bị cáo T, Tr, T1, H trình bày: Theo lời khai của người bị hại thì họ không nhận biết được khuôn mặt, giọng nói của 04 bị cáo. Các bị cáo chỉ mua chứng minh nhân dân, dán hình vào chứng minh nhân dân và mở tài khoản ngân hàng để bán lại cho Th1 thu lợi. Việc bị cáo T liên lạc và giao dịch với bà Th1 là có thật nhưng các em của T thì không giao dịch. Các bị cáo không rút tiền trong tài khoản của những người bị hại, không nhận thức được việc mở các thẻ ATM để bán cho bà Th1 là để lừa các bị hại. Hành vi của các bị cáo không cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chỉ phạm tội “Làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị Hội đồng xét xử thay đổi tội danh đối với các bị cáo. Ngoài ra, đề nghị HĐXX xem xét phần trách nhiệm dân sự và cho các bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ như nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 8/2017 đến tháng 12/2017, bị cáo La Châu T đứng ra tổ chức cho một số đối tượng nam giới làm quen, kết bạn với một số người phụ nữ Việt Nam thông qua mạng Zalo, Facebook, trong đó có chị Phạm Nguyễn Thúy Tr và Hoàng Thị V. Sau khi làm quen, nhóm của bị cáo đề nghị chị Tr và chị V nhận hàng gửi từ nước ngoài giúp và sẽ trả công, tặng quà cho. Sau đó, bị cáo T nhờ người giả làm nhân viên hải quan để gọi điện, nhắn tin cho các bị hại yêu cầu nộp tiền lệ phí để được nhận hàng. Tin tưởng thông tin trên là sự thật, chị Tr và chị V đã nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản giả mà La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H đã mở tại ngân hàng theo đề nghị của La Châu T. Sau khi nhận tiền, các bị cáo chiếm đoạt và sử dụng vào mục đích cá nhân. Tổng số tiền mà các bị cáo chiếm của chị Phạm Nguyễn Thúy Tr và Hoàng Thị V là 617.500.000 đồng.

Trong đó, bị cáo La Ngọc T1 mở tài khoản giả giúp sức cho T chiếm đoạt số tiền 470.000.000 đồng, La Gia Tr giúp sức chiếm đoạt số tiền 87.500.000 đồng và Ngô Thị Thúy H giúp sức chiếm đoạt 60.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo La Châu T theo điểm a khoản 4 Điều 139, bị cáo La Ngọc T1 theo điểm a khoản 3 Điều 139 và La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H theo điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 cùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo kêu oan. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều thừa nhận T là người chỉ đạo các bị cáo Tr, T1, H mua lại các chứng minh nhân dân tại tiệm cầm đồ, sau đó dán hình của mình vào để mở tài khoản tại các ngân hàng nhằm lừa đảo những người nhẹ dạ, cả tin chuyển tiền vào tài khoản các bị cáo đã mở rồi hưởng lợi từ T. Các bị cáo cũng thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Do đó, kháng cáo kêu oan của các bị cáo là không có cơ sở chấp nhận.

Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Các bị cáo phạm tội nhiều lần, có tổ chức, trong đó bị cáo La Châu T là người chủ mưu, cầm đầu, tổ chức cho các đối tượng thực hiện việc làm quen và nhờ gửi hàng, chỉ đạo cho La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H mở các tài khoản ATM quốc tế để nhận tiền chiếm đoạt. Các bị cáo T1, Tr, H đã giúp sức tích cực cho T trong việc mở các tài khoản ngân hàng giả để chiếm đoạt tài sản của người bị hại.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo đều là anh chị em trong một gia đình nên đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét cho các bị cáo. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T 13 năm tù, T1 07 năm tù, Tr 04 năm tù và H 03 năm tù là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù các bị cáo đã khắc phục hậu quả, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; tuy nhiên các bị cáo vẫn ngoan cố, không thừa nhận hành vi phạm tội, không thể hiện sự ăn năn, hối cải nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo La Châu T, La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo La Châu T, La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HSST ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Tuyên bố các bị cáo La Châu T, La Ngọc T1, La Gia Tr, Ngô Thị Thúy H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Châu T 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/12/2018.

- Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Ngọc T1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ bắt giam thi hành án.

- Áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo La Gia Tr 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/12/2018.

- Áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị Thúy H 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ bắt giam thi hành án.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo La Châu T, La Gia Tr, La Ngọc T1 và Ngô Thị Thúy H mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 637/2019/HS-PT ngày 22/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:637/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về