Bản án 636/2017/HSPT ngày 11/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 636/2017/HSPT NGÀY 11/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 603/2017/HSPT ngày 27/10/2017 đối với bị cáo Lê Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 274/2017/HSST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Minh  T; sinh ngày 19/4/1992 tại Thành phố H; Nơi cư trú: 411/179A H1, Phường H2, Quận H3, Thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 8/12; con ông X (1960) và bà Y (1959); sống chung như vợ chồng với D (1996) và có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt, tạm giam từ 13/4/2017 (có mặt). Người tham gia tố tụng khác:

Người bào chữa cho bị cáo Lê Minh T: Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Luật sư của Công ty Luật TNHH A.B.C, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NHẬN THẤY

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 8, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 13/4/2017, Công an Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra hành chính tại nhà không số, kế số 845C Nguyễn Duy, Phường 12, Quận 8 phát hiện cạnh nơi Trần Đào Kim N và Lê Minh T đang ngồi có 01 hộp thiếc màu hồng, bên ngoài ghi chữ Hello Kitty, bên trong có 13 gói nylon chứa ma túy (N và T khai là ma túy dùng để bán). Ngoài ra, Công an Phường 12, Quận 8 còn thu giữ của N 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 350.000 đồng, thu giữ của T 01 điện thoại di động Samsung. Sau đó, Công an Phường 12, Quận 8 đưa N và T cùng vật chứng về trụ sở Công an phường để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi chuyển đến cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 8 điều tra làm rõ.

Theo bản kết luận giám định số 790/KLGĐ-H ngày 25/5/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 13 gói nylon (để trong 01 hộp thiếc màu hồng hiệu Hello Kitty) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,0704g.

Tại Cơ quan Điều tra, Trần Đào Kim N và Lê Minh T khai nhận: N và T là bạn bè cùng nghiện ma túy. Từ tháng 02/2017 đến nay, T thường đến nhà N ăn ở sinh hoạt và được N cho ma túy để sử dụng. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 13/4/2017, N ở nhà và điện thoại cho Trương Thị Mỹ C (tên thường gọi là L1) hỏi mua ma túy tổng hợp giá 2.000.000 đồng. C đồng ý và điều khiển xe gắn máy (không rõ biển số) đến nhà bán cho N 16 gói ma túy tổng hợp (gồm 09 gói lớn, và 07 gói nhỏ). N bỏ số ma túy mua được vào trong 01 hộp thiếc màu hồng ghi chữ Hello Kitty chờ người nghiện mua đến bán với giá 250.000 đồng/gói lớn và 150.000 đồng/gói nhỏ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, trong lúc N đang tắm thì có người (không rõ lai lịch) đến nhà gặp T hỏi mua ma túy. T báo cho N biết rồi cầm gói ma túy N đưa, giao ma túy và nhận 170.000 đồng của người mua đưa lại cho N. Sau đó, N nhờ T phụ bán giúp ma túy, T đồng ý. N đưa hộp thiếc cho T và nói với T bán gói ma túy lớn giá 300.000 đồng, gói nhỏ giá 200.000 đồng, nếu ai trả giá thì giảm 50.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T bán 01 gói ma túy tổng hợp với giá 250.000 đồng cho một người (không rõ lai lịch), N bán được 01 gói ma túy giá 150.000 đồng. Khi N và T ngồi trên sàn nhà chờ người mua ma túy đến để bán thì bị bắt quả tang.

Tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân Quận 8 đã tuyên phạt bị cáo Lê Minh T như sau:

Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2017.

Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt bị cáo Trần Đào Kim N mức án 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 02/10/2017, bị cáo Lê Minh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày:  Bị cáo Lê Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, nhưng không thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T chỉ giúp N bán ma túy một lần, còn lần đầu là giúp N đưa đồ giùm và không biết đó là ma túy cũng như không có động cơ mua bán vụ lợi. Ngoài ra, bị cáo phạm tội, nhưng là đồng phạm giúp sức giản đơn, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn và có người thân tham gia quân đội, bị cáo phạm tội nhưng số lượng ma túy bán ra rất ít, nên gây tác hại không lớn, quá trình điều tra đến nay bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án 03 (ba) năm tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo T tuy có quanh co nhưng sau cùng vẫn thừa nhận bản thân đã hai lần bán ma túy giúp N, thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Hành vi phát tán ma túy  là chất Nhà nước ta cấm lưu hành đã là trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, không thể xét định lượng ma túy bị cáo bán ra không đáng kể để xác định bị cáo phạm tội gây thiệt hai lớn và áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Ngoài ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa án cấp sơ thẩm đều đã cân nhắc cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của luật sư.

XÉT THẤY

Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Minh T làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên được xem xét tại cấp phúc thẩm.

Xét về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, từ đó xác định được: Vào ngày 13/4/2017, bị cáo Lê Minh T có hành vi giúp sức cho đối tượng Trần Đào Kim N bán ma túy hai lần cho các đối tượng nghiện để kiếm lời. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Luật sư đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là không đúng quy định pháp luật. Tòa án nhân dân Quận 8 tuyên phạt bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan sai.

Về hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không trình bày gì thêm để Hội đồng xét xử xem xét. Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo phạm tội không gây thiệt hại lớn là không chính xác, ngoài ra luật sư còn trình bày hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn và có xuất trình giấy khen của mẹ bị cáo là bà Y có công trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc để xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, lời trình bày của luật sư cũng đã được xem xét tại cấp sơ thẩm. Nhận thấy, Tòa án nhân dân Quận 8 đã xem xét toàn diện hồ sơ vụ án, cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và tuyên phạt bị cáo mức án 07 (bảy) năm tù là đã phù hợp. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê  Minh  T  07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2017.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 636/2017/HSPT ngày 11/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:636/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về