Bản án 635/2018/HS-PT ngày 18/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 635/2018/HS-PT NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 263/2018/TLPT-HS ngày 22 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Đỗ Hoài N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 16 tháng 01 năm 2018 của Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đỗ Hoài N, sinh ngày 23-3-1981; nơi ĐKHKTT: Tổ 10, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản N, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; con ông Đỗ Văn V (đã chết) và bà Đỗ Thị K; có vợ là Nguyễn Thị Thu H và có 02 con (con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 28-6-2017. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo: Ông Lê Thanh H - Văn phòng Luật sư C, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa do gia đình bị cáo mời: Luật sư Lê Văn K, Nguyễn Sơn H, Trần Sỹ H – Văn phòng luật sư A thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Luật sư K có mặt tại phiên tòa; luật sư Nguyễn Sơn H, H vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 28-6-2017, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố L làm nhiệm vụ tại khu vực phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai phát hiện bắt quả tang Đỗ Hoài N có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Thu giữ 05 bánh hình hộp chữ nhật bên trong là các chất bột khô màu trắng, Đỗ Hoài N khai nhận là Hêrôin.

Bản kết luận giám định số 150/GĐMT ngày 03-7-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Các mẫu chất bột khô mầu trắng thu giữ của Đỗ Hoài N gửi giám định là Heroine (Hêrôin) tổng trọng lượng (Khối lượng) là 1.749,33 gam.

Quá trình điều tra xác định: Sáng ngày 27-6-2017, Đỗ Hoài N điện thoại cho một người đàn ông quốc tịch Lào hỏi mua 05 bánh Hêrôin, thỏa t huận giá là 160.000.000 đồng/01 bánh. Cùng ngày, Đỗ Hoài N đến chợ trung tâm thành phố Điện Biên mua 01 túi xách để đựng ma túy. Sau đó Đỗ Hoài N đi lên khu vực cửa khẩu Tây Trang gặp người đàn ông Lào mua 05 bánh Hêrôin giá 800.000.000 đồng. Sau khi nhận ma túy N cho Hêrôin vào trong túi xách mới mua và đi xe khách từ thành phố Điện Biên về bến xe Mỹ Đình, Hà Nội. Sáng ngày 28-6-2017 Đỗ Hoài N đến Hà Nội và tiếp tục đi xe khách hãng Sao Việt lên Lào Cai, khi xe đi đến Km 224 cao tốc Nội Bài - Lào Cai, N xuống xe và thuê xe ôm đi lên thành phố L. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, N đi đến khu vực gầm cầu vượt thuộc tổ 25, phường Bình Minh, thành phố L thì Đỗ Hoài N bị lực lượng công an bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số Hêrôin.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Đỗ Hoài N khai bị cáo được người phụ nữ tên Hoàng Bích Ng thuê vận chuyển ma túy từ Điện Biên đến Lào Cai giao cho một người phụ nữ khác tên NH ở thị trấn Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai với tiền công là 25.000.000 đồng. Bị cáo không phải là người trực tiếp mua, bán ma túy.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 16 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, xử phạt bị cáo Đỗ Hoài N Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Phạt bị cáo Đỗ Hoài N 20.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 24-01-2018, bị cáo Đỗ Hoài N có đơn kháng cáo kháng cáo về tội danh, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Tại Cơ quan điều tra bị cáo có nhiều bản cung, bản tự khai do làm ăn thu lỗ nên đã nảy sinh việc mua bán ma túy nhưng khi đến phiên tòa sơ thẩm ngày 09-11-2017, bị cáo khai không trực tiếp mua bán ma túy mà bị cáo được người phụ nữ tên Hoàng Bích Ng thuê vận chuyển ma túy đến Lào Cai để giao cho một người phụ nữ khác tên NH ở thị trấn Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai với tiền công là 25.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định trả hồ sơ để điều tra làm rõ. Cơ quan điều tra sau khi nhận hồ sơ đã tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành đối chất để làm rõ theo lời khai của bị cáo nhưng kết qu ả không có căn cứ để xác định Hoàng Bích Ng thuê bị cáo vận chuyển ma túy đến Lào Cai cho NH.

Tuy nhiên, đại diện Viện kiểm sát thấy Cơ quan điều tra chưa tiến hành xác minh, điều tra ngay từ đầu, chưa tiến hành thu thập các tài liệu, các list điện thoại của bị cáo, đến nay thời gian đã lâu nên kết quả điều tra bổ sung không đủ căn cứ chứng minh các hành vi của Ng, NH liên quan đến hành vi của bị cáo nhưng các tài liệu trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Do hám lợi, tối ngày 27-6-2017, bị cáo N đã đi lên cửa khẩu Tây Trang mua 05 bánh Hêrôin với giá 800.000.000 đồng, sau đó vận chuyển ma túy đến thành phố L để bán. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 28-6-2017, bị cáo N đi đến khu vực gầm cầu vượt thuộc phường B, thành phố L để bán ma túy thì bị bắt, nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý; gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán chất ma túy với tổng khối lượng rất lớn, vì vậy cần phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Khi quyết định mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án tử hình là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Các luật sư nêu quan điểm bào chữa cho bị cáo:

* Luật sư Lê Văn K trình bày lời bào chữa: Tại các phiên tòa xét xử công khai, bị cáo đã khai mình vận chuyển ma túy thuê cho chị Hoàng Bích Ng (chị Ng là vợ của anh D - anh họ Đỗ Hoài N) có địa chỉ tại: phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên) với giá 25.000.000 đồng. Theo đó, sáng ngày 27-6-2017, chị Ng điện cho Đỗ Hoài N bảo liên hệ với 2 người dân tộc Mông (N lưu trong điện thoại là Gà điện biên) để lấy 01 gói hàng mang xuống giao cho chị NH (Nam lưu trong điện thoại là Hà Sơn, sinh năm 1969 có địa chỉ tại Phú Cường 1, Phố Lu, Bảo Thắng, Lào Cai). Trên đường về Lào Cai, vào lúc hơn 13 giờ ngày 28- 6-2017, Nguyễn Thị NH bảo Đỗ Hoài N xuống cây số 224 và cử 01 thanh niên đi xe máy Exciter màu đỏ ra đón. Xuống xe, người thanh niên này chở N về thành phố L, trên đường về thì bị Công an bắt.

Trong quá trình Công an thành phố L điều tra, do thương chị Ng mới đẻ con và do nhận thức pháp luật còn hạn chế nên N đã nhận toàn bộ 05 bánh Hêrôin nêu trên là của mình mua và đang đi tìm chỗ bán. Trong quá trình tạm giam, anh D cũng vào gửi quỹ cho N 3.000.000 đồng và nhắn N “Em yên tâm, ở ngoài anh chị lo hết rồi”.

Tuy nhiên, sau khi nhận được Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai và có thời gian bình tâm suy nghĩ lại, N đã quyết định khai ra toàn bộ sự thật của vụ án để lập công chuộc tội.

Trong quá trình điều tra bổ sung, NH và Hoàng Bích Ng đều không thừa nhận hành vi. NH khẳng định không quen biết N cũng như Hoàng Thị Bích Ng.

Tuy nhiên, Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lào Cai mới chỉ mở niêm phong và kiểm tra điện thoại đã thu giữ của N mà không có công văn đề nghị các nhà mạng di động cung cấp các cuộc gọi đi, gọi đến và tin nhắn từ số máy của Hoàng Bích Ng và đặc biệt là NH đến số máy của N trong các ngày 25, 26, 27 tháng 6 năm 2017 để làm rõ các đối tượng Nguyên Thị NH, Hoàng Bích Ng và Đỗ Hoài N có liên lạc với nhau không?

Trong chiếc máy điện thoại mà N để ở nhà có ghi tên và số điện thoại của các đối tượng mà N đã khai tại phiên tòa sơ thẩm lần đầu. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 2 luật sư đã cung cấp chiếc điện thoại này cho Hội đồng xét xử nhưng Hội đồng xét xử lại không coi đây là chứng cứ của vụ án nên đã trả lại điện thoại cho người nhà Đỗ Hoài N.

Ngoài ra, trong ngày 16-01-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai cũng đưa ra xét xử vụ án Dương Thị C có địa chỉ tại thành phố L, tỉnh Lào Cai phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tại phiên tòa công khai, Dương Thị C đã khai ra mình là người vận chuyển thuê cho NH sinh năm 1969 có địa chỉ tại Phú Cường 1, phố Lu, Bảo Thắng, Lào Cai. Tuy nhiên, lời khai này của Dương Thị Cúc cũng không được Hội đồng xét xử xem xét.

Mặt khác, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai quy kết bị cáo Đỗ Hoài N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” cũng chưa đúng với bản chất của vụ án, bởi lẽ việc quy kết nêu trên cũng chỉ dựa vào lời khai của bị cáo N và việc này đã không tuân thủ nguyên tắc suy đoán có lợi cho bị cáo Đỗ Hoài N bởi sau này bị cáo Đỗ Hoài N chỉ thừa nhận mình vận chuyển ma túy cho NH và Hoàng Bích Ng.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại tránh làm nặng hơn cho bị cáo Đỗ Hoài N và tránh bỏ lọt tội phạm.

* Luật sư Lê Thanh H trình bày bổ sung: Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, do đó để tâm lý bị cáo ổn định, chịu trách nhiệm về hành vi và hình phạt thì cần làm rõ hành vi của bị cáo có đồng phạm hay không, đồng ý quan điểm của luật sư Kiên, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, làm rõ hành vi các đối tượng Ng, Hà có đồng phạm với bị cáo hay không?

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, của người bào chữa; Hội đồng xét xử, xét thấy:

 [1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo N không thành khẩn khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy mà cho rằng chỉ phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định: Sáng ngày 27-6-2017, Đỗ Hoài N điện thoại cho một người đàn ông quốc tịch Lào hỏi mua 05 bánh Hêrôin, thỏa thuận giá là 160.000.000đồng/01 bánh. Cùng ngày, Đỗ Hoài N đến chợ trung tâm thành phố Điện Biên mua 01 túi xách để đựng ma túy. Sau đó Đỗ Hoài N đi lên khu vực cửa khẩu Tây Trang gặp người đàn ông Lào mua 05 bánh Hêrôin giá 800.000.000 đồng. Sau khi nhận ma túy, N cho Hêrôin vào trong túi xách mới mua và đi xe khách từ thành phố Điện

Biên về bến xe Mỹ Đình, Hà Nội. Sáng ngày 28-6-2017, Đỗ Hoài N đến Hà Nội và tiếp tục đi xe khách hãng Sao Việt lên Lào Cai, khi xe đi đến Km 224 cao tốc Nội Bài - Lào Cai, N xuống xe và thuê xe ôm đi lên thành phố L. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, N đi đến khu vực gầm cầu vượt thuộc tổ 25, phường Bình Minh, thành phố L thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số Hêrôin.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Mặc dù tại phiên tòa hôm nay bị cáo vẫn khai như tại phiên toà sơ thẩm không trực tiếp mua bán ma túy mà bị cáo được người phụ nữ tên Hoàng Bích Ng thuê vận chuyển ma túy đến Lào Cai để giao cho một người phụ nữ khác tên NH ở thị trấn Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai với tiền công là 25.000.000 đồng. Hội đồng phúc thẩm thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định trả hồ sơ để điều tra làm rõ những lời khai của Đỗ Hoài N. Cơ quan điều tra sau khi nhận hồ sơ đã tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành đối chất để làm rõ theo lời khai của bị cáo; cụ thể tại biên bản đối chất giữa Đỗ Hoài N với Hoàng Bích Ng ngày 01-12-2017 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai thực hiện có sự chứng kiến của hai luật sư Lê Văn Kiên, Trần Sỹ Hoàng nhưng kết quả không có căn cứ để xác định Hoàng Bích Ng thuê bị cáo vận chuyển ma túy ra Lào Cai cho NH (BL 189-190). Điều này phù hợp với lời khai của NH không quen biết Đỗ Hoài N và Hoàng Bích Ng (BL 203). Với hành vi bị cáo đã thực hiện và lượng mà túy bị cáo đã mua bán, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

 [3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước ta. Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra ở địa bàn một tỉnh biên giới hai nước Việt - Lào, không những tiếp tay cho người nước ngoài trong việc cùng mua bán trái phép chất ma túy đưa vào nước ta, đồng thời gián tiếp tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm chích và các tội phạm khác phát triển.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo mua bán là 1.749,33 gam Hêrôin. Do đó, cần phải xét xử thật nghiêm theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” mới có tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa trong việc tuyên truyền đấu tranh phòng chống về loại tội phạm nguy hiểm này.

 [4] Về nhân thân mặc dù bị cáo không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; sau khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn khai báo về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi và sự việc xảy ra; về điều kiện, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, các con nhỏ. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định: người phạm tội mua bán Hêrôin có trọng lượng từ 100 gam trở lên thì bị phạt tù hai mưuơi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Trong vụ án cụ thể này, Đỗ Hoài N mua bán 1.749,33 gam Hêrôin. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiệm trọng nên Toà án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt cao nhất loại bỏ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là đúng pháp luật. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo không đưa ra được những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin thay đổi tội danh và xin giảm nhẹ hình phạt.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo về thay đổi tội danh và xin giảm hình phạt của bị cáo cũng như luận cứ của luật sư bào chữa cho bị cáo mà cần chấp nhận lập luận của đại diện Viện kiểm sát đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

 [1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, xử phạt bị cáo Đỗ Hoài N Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, bị cáo Đỗ Hoài N được quyền làm đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. 

Phạt tiền bị cáo Đỗ Hoài N 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

 [2] Bị cáo Đỗ Hoài N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

 [3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 635/2018/HS-PT ngày 18/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:635/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về