Bản án 63/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Hà Trọng D (tên gọi khác: Dưa Leo); sinh năm 1986 tại tỉnh G; nơi cư trú: Tổ 6, phường Hội Thương, Th phố Pleiku, tỉnh G; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; giới tính: Nam; con ông Hà Trọng Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hoa; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: 01 (ngày 15/3/2017, bị Tòa án nhân dân TP.Pleiku, tỉnh G tuyên án 57 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 33/2017/HS-ST. Chưa được xóa án tích); tiền sự: 02 (ngày 26/02/2010, bị Ủy ban nhân dân TP.Pleiku, tỉnh G ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện trong thời gian 12 tháng. Ngày 27/4/2012, bị Ủy ban nhân dân TP.Pleiku, tỉnh G ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện trong thời gian 18 tháng, tuy nhiên đến ngày 03/11/2012 đã bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện); nhân thân: Ngày 27/7/2004, bị Tòa án nhân dân TP.Pleiku, tỉnh G tuyên án 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 48/HSST (đã được xóa án tích). Ngày 24/01/2006, bị Tòa án nhân dân TP.Pleiku, tỉnh G tuyên án 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 10/2006/HSST, đồng thời tổng hợp hình phạt với Bản án số 48/HSST (đã được xóa án tích). Ngày 15/5/2021, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị Tu, sinh năm 1969. Trú tại: Thôn 01, xã An Phú, Th phố Pleiku, tỉnh G. Vắng mặt.

Chị Đinh Thị Xuân Ph, sinh năm 1971. Trú tại: Thôn 4, xã An Phú, Th phố Pleiku, tỉnh G. Vắng mặt.

Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1997. Trú tại: 309 Nguyễn Huệ, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.

Anh Nguyễn C, sinh năm 1979. Trú tại: Thôn 1, xã Tân Bình, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1987. Trú tại: 37 Lê Hồng Phong, phường Diên Hồng, Th phố Pleiku, tỉnh G. Vắng mặt.

Anh Hà Trọng Bình, sinh năm 1983. Trú tại: Tổ dân phố 6, phường Hội Thương, Th phố Pleiku, tỉnh G. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 06/5/2021 đến ngày 15/5/2021, Hà Trọng D và cùng Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1987, trú tại phường Diên Hồng, TP.Pleiku, tỉnh G) đã thực hiện 04 lần trộm cắp tài sản tại địa bàn Th phố Pleiku và huyện Đ, tỉnh G, cụ thể như sau:

Lần thứ 1: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 06/5/2021, Hà Trọng D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 81T1-8850 đi từ nhà đến xã An Phú, Th phố Pleiku (TP.Pleiku), tỉnh G, với mục đích tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà bà Đinh Thị Xuân Ph (sinh năm 1971) thuộc Thôn 4, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G, D nhìn thấy trong sân nhà có để một số bàn ghế, cổng nhà đang mở và không có người trông coi, D dừng xe trước cổng đi bộ vào lấy trộm 02 chiếc bàn inox nhãn hiệu Qui Phúc, kích thước (0,7 x 1,2)m để xe mô tô rồi điều khiển xe chạy thoát. Sau đó, D chở 02 chiếc bàn mới trộm cắp được đi đến khu vực chợ An Phú, thuộc thôn 3, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G, thì gặp một người phụ nữ thu mua phế liệu lưu động và bán 02 chiếc bàn cho người này lấy số tiền 200.000đồng, rồi dùng tiền để mua ma túy sử dụng hết. Qua định giá xác định tài sản bị trộm cắp trị giá 400.000đồng.

Lần thứ 2: Vào khoảng 15 giờ ngày 13/5/2021, Hà Trọng D rủ Nguyễn Văn Đ đi trộm cắp tài sản thì Đ đồng ý. D điều khiển xe mô tô BKS 81T1- 8850 chở Nguyễn Văn Đ đi từ TP.Pleiku đến huyện Đ, tỉnh G với mục đích tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đi đến trước cửa tiệm cơm gà “Gia Vĩnh” của anh Nguyễn Văn Th (Sinh năm 1997) tại số nhà 309 Nguyễn Huệ, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G, D phát hiện trong quán có nhiều ghế nhựa nhưng không có người trông coi, nên đã nói Đ đi vào bên trong lấy trộm. Nguyễn Văn Đ đi vào lấy 01 chồng ghế gồm 19 chiếc ghế nhựa (loại ghế nhựa tựa lưng màu vàng) mang ra xe rồi D điều khiển xe chở Đ chạy thoát về hướng TP.Pleiku. Khi đi đến khu vực gần Bệnh viện đa khoa tỉnh G thuộc đường Tôn Thất Tùng, phường Phù Đổng, Tp.Pleiku, tỉnh G, cả hai gặp một người phụ nữ thu mua phế liệu lưu động và bán số ghế trên cho người này lấy số tiền 380.000đồng rồi dùng tiền để mua ma túy cùng sử dụng hết. Qua định giá xác định tài sản bị trộm cắp trị giá 1.615.000đồng.

Lần thứ 3: Vào khoảng 10 giờ ngày 15/5/2021, Hà Trọng D rủ Nguyễn Văn Đ đi trộm cắp tài sản thì Đ đồng ý. Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô BKS 81T1- 8850 chở D đi qua trước nhà bà Nguyễn Thị Tu (Sinh năm 1969) thuộc Thôn 1, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G, D nhìn thấy trong sân nhà bà Tu có nhiều ghế nhựa, cổng nhà đang mở và không có người trông coi nên D nói Đ dừng xe đợi trước cổng, còn D đi bộ vào trong sân lấy trộm 01 chồng ghế gồm 16 chiếc ghế nhựa (nhãn hiệu Qui Phúc, loại ghế nhựa bành, màu đỏ) mang ra xe rồi Đ điều khiển xe chở D chạy thoát. Khi đi đến khu vực chợ An Phú, thuộc Thôn 3, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G, cả hai gặp một người phụ nữ thu mua phế liệu lưu động và bán số ghế trên cho người này lấy số tiền 320.000đồng rồi dùng tiền để mua ma túy cùng sử dụng hết. Qua định giá xác định tài sản bị trộm cắp trị giá 480.000đồng.

Lần thứ 4: Vào khoảng 15 giờ ngày 15/5/2021, Hà Trọng D rủ Nguyễn Văn Đ đi trộm cắp tài sản thì Đ đồng ý. Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô BKS 81T1- 8850 chở Hà Trọng D đi từ TP.Pleiku đến huyện Đ, tỉnh G với mục đích tìm nhà dân sơ hở trộm cắp tài sản. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đi qua nhà của ông Nguyễn C (Sinh năm 1979) thuộc Thôn 1, xã Tân Bình, huyện Đ, tỉnh G, D phát hiện trong sân nhà có để một chồng ghế nhựa nên D nói Đ dừng xe lại còn D đi bộ vào trong sân lấy trộm chồng ghế gồm 15 chiếc (loại ghế tựa lưng màu xanh) mang ra xe rồi Đ điều khiển xe chở D chạy về hướng TP.Pleiku. Khi đi đến địa phận xã An Phú, TP. Pleiku, tỉnh G thì bị Công an huyện Đ truy đuổi và bắt giữ cùng với tang vật. Qua định giá xác định tài sản bị trộm cắp trị giá 1.275.000đồng.

Về vật chứng:

- Đối với 15 chiếc ghế nhựa màu xanh thu được khi bắt giữ Hà Trọng D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn C.

- Đối với xe mô tô BKS 81T1-8850, quá trình điều tra xác minh đây là tài sản của anh trai Hà Trọng D là anh Hà Trọng Bình (sinh năm 1983, trú tại Tổ 6, phường Hội Thương, TP.Pleiku, tỉnh G). Khi D sử dụng xe làm Ph tiện thực hiện hành vi trộm cắp tài sản anh Bình không biết, nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Hà Trọng Bình.

Về dân sự:

- Ông Nguyễn C đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì khác.

- Bà Đinh Thị Xuân Ph và bà Nguyễn Thị Tu không yêu cầu bồi thường.

- Anh Nguyễn Văn Th yêu cầu bồi thường số tiền 1.800.000đồng. Nguyễn Văn Đ đã bồi thường số tiền 900.000đồng còn Hà Trọng D chưa bồi thường. Tại phiên tòa anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ, TP.Pleiku và không có ý kiến gì khác.

Tại bản Cáo trạng số: 54/CT-VKS ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh G truy tố bị cáo Hà Trọng D về tôi “Trôṃ cắp tai san” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hà Trọng D và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điêm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Trọng D; Xử phạt bị cáo Hà Trọng D từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Bị cáo Hà Trọng D phải nộp tiền do bán tài sản trộm cắp mà có vào Ngân sách Nhà nước theo quy định pháp luật.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Hà Trọng D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến gì đối với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo và hình phạt: Bị cáo Hà Trọng D có 01 tiền án về tội xâm phạm sở hữu, chưa được xóa án tích, nhưng trong khoảng thời gian từ ngày 06/5/2021 đến ngày 15/5/2021, Hà Trọng D đã trộm cắp 02 chiếc bàn inox của bà Đinh Thị Xuân Ph tại Thôn 4, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G; 19 chiếc ghế nhựa màu vàng của anh Nguyễn Văn Th tại số nhà 309 đường Nguyễn Huệ, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G; 16 chiếc ghế nhựa màu vàng của bà Nguyễn Thị Tu tại Thôn 1, xã An Phú, TP.Pleiku, tỉnh G và 19 chiếc ghế nhựa màu xanh của ông Nguyễn C tại Thôn 1, xã Tân Bình, huyện Đ, tỉnh G. Tài sản mà Hà Trọng D đã trộm cắp có tổng trị giá là 3.770.000đồng.

Như vây, hành vi của bị cáo Hà Trọng D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã nhiều lần lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” “Cướp tài sản”, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Vì vậy, hành vi của bị cáo Hà Trọng D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Do vây, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét căn cứ vào nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo Hà Trọng D phải nộp số tiền 550.000đồng do bán tài sản trộm cắp mà có vào Ngân sách nhà nước (trong đó: 200.000đồng vụ thứ 1, 190.000đồng vụ thứ 2 và 160.000đồng vụ thứ 3).

Đối với Nguyễn Văn Đ là người đã cùng bị cáo 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, hành vi của Nguyễn Văn Đ không đủ các yếu tố cấu Th tội phạm. Ngày 11/8/2021, Nguyễn Văn Đ đã bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là đúng theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, đối với việc Hà Trọng D khai nhận trộm cắp 08 chiếc ghế nhựa tại một nhà thuộc địa bàn xã Biển Hồ, TP.Pleiku, tỉnh G vào đầu tháng 5/2021, quá trình điều tra không xác định được địa điểm trộm cắp, đồng thời không xác định được bị hại, nên không có căn cứ xử lý đối với Hà Trọng D về hành vi này là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với những người đã mua bàn, ghế do Hà Trọng D trộm cắp, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của những người này nên không có căn cứ để xem xét xử lý là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với hành vi Hà Trọng D và Nguyễn Văn Đ dùng tiền do bán tài sản trộm cắp mà có để mua ma túy sử dụng, không có chứng cứ nào khác ngoài lời khai của D và Đ để xác minh sự việc, vì vậy không có căn cứ để xem xét xử lý là đúng theo quy định pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có 03 tiền án (trong đó 02 tiền án đã được xóa án tích) và 02 tiền sự chưa được xóa.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tinh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hình vi phạm tội của mình; phạm tội gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại Nguyễn Văn Th yêu cầu bồi thường số tiền 1.800.000đồng. Nguyễn Văn Đ đã bồi thường số tiền 900.000đồng còn Hà Trọng D chưa bồi thường, tại phiên tòa anh Th có đơn xét xử vắng mặt và không yêu cầu bồi thường về dân sự. Vì vậy HĐXX không xem xét.

[5] Về vật chứng:

Đối với 15 chiếc ghế nhựa màu xanh thu được khi bắt giữ Hà Trọng D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn C là có cơ sở.

Đối với xe mô tô BKS 81T1-8850, quá trình điều tra xác minh đây là tài sản của anh trai Hà Trọng D là anh Hà Trọng Bình. Khi D sử dụng xe làm Ph tiện thực hiện hành vi trộm cắp tài sản anh Bình không biết, nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Hà Trọng Bình là có cơ sở.

[6] Về án phí: Bị cáo Hà Trọng D phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoan 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Trọng D;

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Hà Trọng D pham tôi “Trôṃ cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hà Trọng D 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2021.

Buộc bị cáo Hà Trọng D phải nộp số tiền 550.000đồng (năm trăm năm mươi nghìn đồng) do bán tài sản trộm cắp mà có vào Ngân sách nhà nước.

4. Về án phí:

Xử buộc bị cáo Hà Trọng D phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/9/2021), bi ̣ cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng măt tai phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoăc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về