Bản án 63/2021/HSST ngày 26/05/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU- TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 63/2021/HSST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Phạm Thành C, sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai;

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: lớp 12/12;

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa;

Họ tên cha: Phạm Quốc T, sinh năm 1962; Họ tên mẹ: Nguyễn Lệ A, sinh năm 1965;

Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất;

Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Quỳnh D, sinh năm 1984; bị cáo có 01 con sinh năm 2012;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 08/02/2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản".

- Ngày 25/3/2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", chấp hành hình phạt tù ra trại ngày 24/9/2004, án phí hình sự đã chấp hành xong ngày 19/7/2004.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ của C an huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

* Bị hại: Cháu Trần Đại L, sinh ngày 08/7/2011.

Người đại diện hợp pháp của cháu L là ông Trần Văn A, sinh năm 1986 và bà Quảng Diễm T, sinh năm 1990.

Cùng địa chỉ: Tổ 7, ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là Ông Nguyễn Minh- Trợ giúp pháp lý viên- Chi nhánh Trợ giúp pháp lý nhà nước huyện Vĩnh Cửu.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Tổ 7, ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

- Bà Nguyễn Thị Quỳnh D1, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số 44, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có mặt tham gia phiên tòa, những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 28/12/2020, Phạm Thành C điều khiển xe mô tô hiệu MIO biển số 60B7-AAAAA lưu thông trên đường tỉnh lộ 768 hướng xã Thạnh Phú đi xã Thiện Tân. Khi đến đoạn đường trước tiệm K, thuộc ấp 1, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, C nhìn thấy cháu Trần Đại L ngồi trên xe đạp, chân chống xuống đất, tay trái đang sử dụng điện thoại hiệu Samsung Galaxy A20S. C nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của cháu L nên điều khiển xe quay ngược xe lại rồi từ phía sau chạy tới áp sát, dùng tay giật chiếc điện thoại của cháu L rồi nhanh chóng điều khiển xe bỏ chạy. Thấy cháu L la lên bị giật điện thoại, anh Trần Hữu D cùng một số người dân truy đuổi bắt giữ được C, giao Công an xã Thạnh Phú xử lý theo quy định.

Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô hiệu MIO biển số 60B7-AAAAA và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20S.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 03/KL-ĐGTS ngày 04/1/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Vĩnh Cửu kết luận chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20S này có trị giá 2.400.000 đồng.

Qua xác minh, xe mô tô biển số 60B7-AAAAA là tài sản riêng của chị Nguyễn Thị Quỳnh D1. Việc C sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội, chị D1 không biết.

Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKSVC ngày 27/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu để xét xử Phạm Thành C về tội “Cướp giật tài sản” theo các điểm d, g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A20S của bà Nguyễn Thị T1 giao cho cháu Trần Đại L sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Vĩnh Cửu trả lại cho bà Nguyễn Thị T1. Bà T1 không có yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt bị cáo Phạm Thành C từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Về chiếc xe mô tô hiệu MIO biển số 60B7.AAAAA giao trả cho chị Nguyễn Thị Quỳnh D1. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày: Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo các điểm d, g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Bị cáo phạm tội đối với cháu L là người dưới 16 tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn như Viện kiểm sát đã đề nghị để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thành C thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 28/12/2020, tại ấp 1, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, bị cáo vừa điều khiển xe mô tô vừa giật điện thoại di động của cháu Trần Đại L (chưa đủ 16 tuổi) rồi nhanh chóng tăng tốc độ xe bỏ chạy. Chiếc điện thoại này có trị giá 2.400.000 đồng. Như vậy bị cáo Phạm Thành C đã phạm tội “Cướp giật tài sản” với các tình tiết định khung là “ dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “ phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại các điểm d, g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, nên cần xử phạt bị cáo mức án đủ nghiêm để cải T1, giáo dục bị cáo trở thành người C dân tốt, sống tôn trọng pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[2]. Xét về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi ngay và đã trả cho bị hại, gây thiệt hại không lớn; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải; Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]. Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô hiệu MIO biển số 60B7.AAAAA mà bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội là tài sản của chị Nguyễn Thị Quỳnh D1 cho bị cáo mượn. Việc bị cáo dùng xe của chị D1 vào việc phạm tội, chị D1 không biết nên trả xe lại cho chị D1.

[5]. Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6]. Về việc xét xử vắng mặt và quyền kháng cáo: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, nhưng trước đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tới tham gia phiên tòa cho những người này. Đồng thời, việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng họ. Quyền kháng cáo của những người vắng mặt tại phiên tòa được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[7]. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật.

Quan điểm và đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm d, g khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Tuyên bố: bị cáo Phạm Thành C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Thành C: 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 28 tháng 12 năm 2020).

2. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trả cho chị Nguyễn Thị Quỳnh D1 chiếc xe mô tô hiệu MIO biển số 60B7.AAAAA (Không có chìa khóa xe). Chị D1 liên hệ cơ quan Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai để nhận lại chiếc xe này khi bản án này có hiệu lực pháp luật. (Chiếc xe này đã được Công an huyện Vĩnh Cửu chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/4/2021).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Thành C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người đại diện hợp pháp của bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2021/HSST ngày 26/05/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:63/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về