Bản án 63/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN – TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 63/2021/HSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường UBND phường Bãi Bông, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:51/2021/HSST ngày 24/3/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:62/2021/QĐXX ngày 08/4/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đồng Minh T ; Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1985 Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố 2, phường Mỏ Chè, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hoá: 09/12. Con ông: Đồng Minh T , sinh năm 1954; Mẹ: Trịnh Thị K , sinh năm 1956. Bị can là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: 01: Ngày 06/7/2020, bị Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” với số tiền 2.500.000 đồng tại Quyết định số 0083599/QĐ-XPHC (ngày 07/7/2020 chấp hành xong).

Nhân thân:

- Bản án số 24/HSST ngày 05/5/2006, Toà án nhân dân huyện (nay là thị xã) Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt Đồng Minh T 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” - Bản án số 13/2006/HSST ngày 16/5/2006, Toà án nhân dân huyện (nay là thị xã) Phổ Yên xử phạt Đồng Minh T 24 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” - Bản án số 04/2014/HSST ngày 26/02/2014, Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công xử phạt Đồng Minh T 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” - Bản án số 19/2014/HSST ngày 25/4/2014 bị Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công xử phạt Đồng Minh T 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp với hình phạt tại bản án số 04/2014/HSST ngày 26/02/2014 buộc T phải chấp hành hình phạt chung là 57 tháng tù (ngày 09/02/2018, T chấp hành xong toàn bộ các bản án trên nên đương nhiên được xóa án tích).

Biện pháp ngăn chặn: Đồng Minh T bị bắt, tạm giữ từ ngày 16/12/2020, đến ngày 25/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

* Người làm chứng:

Anh Lê Thế H , sinh năm 1984 TQ: Tổ 9, phường Mỏ Chè, Tp Sông Công, Thái Nguyên

 * Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn C , sinh năm 1965 TQ: Xóm Trại, xã Nam Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 16/12/2020, tổ công tác Công an xã Nam Tiến, thị xã Phổ Yên đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực xóm Trại, xã Nam Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên phát hiện Đồng Minh Trung và Lê Thế H (sinh năm 1984; trú tại tổ 9, phường Mỏ Chè, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên) có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra thì T tự nguyện giao nộp từ túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc 02 (hai) túi nilon màu trắng trong suốt, bên trong có chứa chất rắn màu trắng trộn lẫn chất bột màu trắng (theo T khai nhận số chất rắn trộn lẫn chất bột màu trắng là ma tuý loại Heroine của T mua để sử dụng cho bản thân), kiểm tra trên người H không phát hiện, thu giữ gì khác. Sau đó, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong số vật chứng thu giữ của Trung gồm: 02 túi ni long trong suốt niêm phong trong phong bì ký hiệu A giao nộp và đưa các đối tượng cùng tài liệu, hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên để giải quyết theo thẩm quyền .

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 16/12/2020, CQCSĐT Công an thị xã Phổ Yên tiến hành mở niêm phong vật chứng ký hiệu A, cân trọng lượng vật chứng và lấy mẫu giám định; kết quả: Sử dụng cân điện tử tại Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Thái Nguyên cân khối lượng toàn bộ chất rắn màu trắng trộn lẫn chất bột màu trắng được 0,186 gam (đã trừ bì). Tất cả số chất rắn màu trắng trộn lẫn chất bột màu trắng nêu trên được cho vào phong bì màu trắng dán kín niêm phong lại ký hiệu M để gửi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Thái Nguyên theo quy định; Vỏ bao mẫu của phong bì niêm phong ký hiệu A cho vào phong bì trắng dán kín niêm phong ký hiệu N lưu kho.

Cùng ngày 16/12/2020, CQĐT Công an thị xã Phổ Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số 409/CSĐT đối với mẫu niêm phong ký hiệu M thu của Đồng Minh T yêu cầu giám định để xác định các chất thu giữ có phải là ma túy không? nếu ma túy là loại gì, khối lượng của mẫu giám định là bao nhiêu? Tại bản Kết luận giám định số 43/KL-KTHS ngày 25/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận:

Số chất rắn màu trắng trộn lẫn chất bột màu trắng thu giữ của Trung là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,186 gam Chất rắn màu trắng đục trong phong bì ký hiệu E gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; có khối lượng là 0,126 gam;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Đồng Minh T khai nhận:

Khoảng 10 giờ ngày 16/12/2020, T bắt xe buýt từ nhà tại thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến xóm Kim Tỉnh, Trung đến trước cửa một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín phía bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Thái Nguyên đi Hà Nội. Khi đứng trước cửa ngôi nhà, T cầm số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) đưa qua khe cửa phía dưới sát nền bê tông thì ở trong nhà có người cầm tiền của Trung rồi đưa cho T qua khe cửa 02 (hai) túi Heroine. Trung không biết chủ ngôi nhà và người bán ma tuý cho mình là ai. Sau khi mua được ma túy, T cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi bộ về. Khi đi đến xóm Thanh Xuyên, xã Trung Thành thì Trung gặp Lê Thế H (là bạn của Trung) và nhờ Hùng đưa về bằng xe mô tô. H điều khiển xe chở T đi đến khu vực bờ mương thuộc xóm Trại, xã Nam Tiến, thị xã Phổ Yên thì Trung bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang như nêu trên. Việc tàng trữ ma túy do Trung thực hiện một mình, H không biết và không tham gia cùng (Bl 42-65). Lời khai nhận của Đồng Minh T phù hợp với lời khai của Lê Thế H cùng các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. T cũng khẳng định mua ma túy loại Heroine là để sử dụng chứ không nhằm bán lại.

Với nội dung nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 56/CT - VKS PY ngày 23/3/2021, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên đã truy tố Đồng Minh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng.

Xét về nhân thân: Mặc dù không bị coi là có tiền án nhưng có nhân thân quá xấu, bị đưa ra xét xử nhiều lần với nhiều lợi tội phạm khác nhau..

Tình tiết giảm nhẹ được hưởng: điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đồng Minh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng: điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo từ 30 - 36 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định 0,162 gam và 01 phong bì niêm phong ký hiệu M lưu kho.

Bị cáo được quyền kháng cáo và phải chịu án phí HSST theo quy định.

Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX cho hưởng lượng khoan hồng với mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

Kết thúc phần tranh tụng bị cáo, đại diện VKS thị xã Phổ Yên không đưa ra quan điểm đối đáp, tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin HĐXX cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Những người làm chứng và người chứng kiến đã được triệu tập đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, trong hồ sơ đã có lời khai thể hiện quan điểm của họ, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt người làm chứng và người chứng kiến. Xét thấy, việc những người này vắng mặt không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét căn cứ Điều 293 BLTTHS, xét xử vắng mặt họ theo thủ tục chung.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Đồng Minh T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 16/12/2020, tại khu vực khu vực xóm Trại, xã Nam Tiến, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên bị cáo Đồng Minh Trung có hành vi cất giấu trái phép 0,186 gam là ma túy, loại Heroine trong người với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo xác định việc mua ma tuý là để phục vụ việc nghiện chứ không có mục đích mua bán trái phép.

[3]. HĐXX thấy: Việc cất giấu ma túy trong người của bị cáo Đồng Minh T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố về tội danh và điều luật viện dẫn tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Cụ thể nội dung Điều 249 BLHS có nội dung:

“1. Người nào Tàng trữ trái phép chất ma túy, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy…thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” c) Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” [4] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi (Heroine) là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (danh mục I là các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội). Hành vi của bị cáo cũng đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma tuý, tiếp tay cho tệ nạn ma tuý ngày càng gia tăng, huỷ hoại lối sống, nhân cách của một số thanh niên hiện nay, gây mất trật tự trị an, là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm khác trong xã hội. Việc Các cơ quan tiến hành tố tụng thị xã Phổ Yên lựa chọn làm án trọng điểm mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai tại địa phương ngày hôm nay là cần thiết, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đối với loại tội phạm này.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bản thân bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào tại Điều 52 BLHS.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù không bị coi là có tiền án nhưng là người có nhân thân quá xấu. Với 4 lần bị đưa ra xét xử về các loại tội phạm khác nhau, trong đó cũng đã có lần bị Toà án nhân dân TP Sông Công xử phạt mức án 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tuy bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của các lần phạm tội nêu trên, xong bị cáo không lấy đó là bài học để rèn luyện cho bản thân, tích cực lao động, phấn đấu trở thành một công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục nghiện ma tuý và phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường kỷ cương, pháp luật. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.

[6].Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người lao động tự do, không có tài sản, nghiện ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên tại phiên tòa đối với bị cáo có căn cứ, đúng luật, phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy loại Heroine còn lại sau giám định, cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy theo quy định.

[9]. Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Đồng Minh T phải chịu án phí HSST và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10].Các vấn đề khác: Trong vụ án này, Lê Thế H là người đi xe mô tô chở Đỗ Minh T khi bị phát hiện bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định H không biết và không tham gia cùng T tàng trữ trái phép chất ma tuý nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với H là phù hợp.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Đồng Minh T , theo T khai mua tại một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín nằm phía bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Thái Nguyên đi Hà Nội thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên. Trung không biết chủ nhân ngôi nhà và người bán ma túy cho mình là ai nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đồng Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38 BLHS, xử phạt:

Bị cáo Đồng Minh T 32 (Ba mươi hai) tháng tù Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/12/2020.

* Căn cứ Điều 329 BLTTHS quyết định tạm giam bị cáo Đồng Minh T 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

*Tịch thu tiêu hủy:

01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,162 gam mẫu M còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu M;

01 phong bì có dấu đỏ ký hiệu N ghi mẫu lưu kho vỏ bao mẫu lưu kho (Vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an thị xã Phổ Yên với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 18/3/2021).

5. Án phí: Áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đồng Minh T phải chịu 200.000đ án phí HSST nộp ngân sách Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 BLTTHS Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo tại phiên toà. Báo cho biết bị cáo Đồng Minh Trung có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 63/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về