Bản án 63/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2021/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 75/2021/HSST-QĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Đinh Quang L, sinh ngày 22/9/1972; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; văn hoá: 10/12; đoàn thể: Không; con ông Đinh Quang L1 (đã chết) và bà Vũ Thị Ngọc L2; có vợ là Phùng Thị V (đã ly hôn) và có 02 người con; quá trình hoạt động: Không; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số: 67/HSST ngày 06/10/2000, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đinh Quang L 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp là 77.387.000đ; chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/10/2002; chấp hành xong án phí vào tháng 9/2002); tại Bản án số: 51/HSST ngày 16/09/2004 Tòa án nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội xử phạt Đinh Quang L 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp là 2.880.000đ; chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/05/2005; chấp hành xong án phí tháng 3/2005); tại Bản án số: 29/HSST ngày 23/04/2007, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đinh Quang L 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp là 11.200.000đ; chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/06/2009; chấp hành xong án phí tháng 9/2007); tại Bản án số: 68/HSST ngày 21/09/2010, Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đinh Quang L 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp là 30.000.000đ; chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/12/2012; chấp hành xong án phí vào tháng 3/2011); tại Bản án số: 88/HSST ngày 30/12/2013, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đinh Quang L 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp là 7.100.000đ; chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/10/2016; chấp hành xong án phí vào tháng 02/2014); Ngày 04/01/2013, Chủ tịch UBND phường P, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 04/4/2013); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/01/2021 đến nay (có mặt).

Bị hại: Chị Phùng Thị T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Khu đô thị C, xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người làm chứng: Anh Dương Đình Q, sinh năm1981; nơi cư trú: TDP V phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 21/01/2021, Đinh Quang L một mình đi xe khách từ nhà đến nhà trọ của chị Nguyễn Thanh H ở phường Đ, thành phố V chơi. Sau đó, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên L đi lang thang khu vực thành phố V xem ai có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến khu Quán bán hàng tạp hóa trong chợ Đ, xã Đ, thành phố V, L phát hiện chiếc xe đạp điện của chị Phùng Thị T đang dựng dưới lòng đường trước cửa quán, bên trong hộc để đồ dưới ổ khóa xe có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng. Sau khi quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi, quản lý tài sản, L dùng tay phải trộm cắp 02 chiếc điện thoại này rồi đi về nhà trọ của chị H. Tại đây, L mượn chị Hải chiếc xe ôtô nhãn hiệu Misubishi mang BKS: 88A-330.11 và một mình điều khiển xe ô tô đến Cửa hàng điện thoại của anh Dương Đình Q để bán nhưng Cửa hàng đang có khách nên chưa bán được điện thoại. Trong lúc L chờ để bán điện thoại, anh Phạm Đức Q (chồng chị T) cùng anh Đào Đức V theo hệ thống định vị trên điện thoại Iphone XS Max đi vào quán hỏi anh Q về việc có mua 02 điện thoại di động loại Iphone XS Max và Iphone 7 Plus hay không. Thấy vậy, L tắt nguồn 02 chiếc điện thoại và cất giấu dưới tủ kính trưng bày sản phẩm của Cửa hàng rồi điều khiển xe ô tô về trả cho chị H. Sau khi bị trộm cắp tài sản như trên, chị T đã tới Cơ quan công an trình báo sự việc.

Khoảng 16 giờ ngày 21/01/2021, Công an thành phố V triệu tập Đinh Quang L đến trụ sở Công an thành phố V để làm việc. Tại đây, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản là 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max và Iphone 7 Plus của chị T tại khu vực chợ Đ, xã Đ, thành phố V.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 19/KL-HĐĐG ngày 26/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố V kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng trị giá 13.000.000đồng;

01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu vàng trị giá 5.000.000đồng. Tổng trị giá của 02 chiếc điện thoại di động là 18.000.000đồng.

Ngoài ra, khoảng 16 giờ 30 phút tại Trụ sở Công an thành phố V trong quá trình làm việc, Công an thành phố V phát hiện trong tất dưới cổ chân phải đang đeo của L có 02 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất cục bột màu trắng (L khai nhận đây là ma túy heroine, L mua để sử dụng cho bản thân). Công an thành phố V đã lập biên bản sự việc, tạm giữ, niêm phong 02 gói giấy trong một phong bì ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số: 279, ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột cục màu trắng của mẫu kỷ hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2828g (không phẩy hai tám hai tám gam, không kể bao bì) loại Heroine ”.

Về nguồn gốc số ma túy, Đinh Quang L khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 21/01/2021, khi đang ở nhà trọ của chị Nguyễn Thanh H thì L nảy sinh ý định sử dụng ma túy (heroine). Sau đó, L đi bộ một mình đến khu vực ngõ 4, đường T, phường N, thành phố V mua của một người phụ nữ (không biết tên, tuổi địa chỉ) 02 gói ma túy heroine với giá 400.000đ. Sau khi mua được ma túy, L cất giấu bên trong tất dưới cổ chân bên phải đang đeo rồi đi về nhà trọ của chị Hải. Tại nhà chị Hải, L lấy một phần trong gói ma túy vừa mua được rồi sử dụng (dưới hình thức hít vào cơ thể), phần còn lại L tiếp tục cất giấu vào vị trí trong tất dưới cổ chân phải để sử dụng.

Tại Cáo trạng số: 71/CT - VKSVY ngày 06/5/2021, Viện kiểm sát Nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Đinh Quang L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đinh Quang L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Bị hại và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa tuy nhiên quá trình điều tra đều đã khai nhận như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đinh Quang L phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự phạt bị cáo Đinh Quang L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự phạt bị cáo Đinh Quang L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điều điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xác nhận Công an thành phố V trả chị Phùng Thị T 02 chiếc điện thoại di động và tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng bao gói.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Đinh Quang L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/01/2021, tại khu vực chợ Định Trung, xã Định Trung, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Bị cáo Đinh Quang L có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng (trị giá 13.000.000đ) và 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng (trị giá 5.000.000đ) của chị Phùng Thị T để trong dỏ chiếc xe đạp dựng ở trước cửa hàng tạp hóa trong chợ Định Trung. Ngoài ra, khi làm việc tại Cơ quan Công an thành phố V, bị cáo Đinh Quang L còn có hành vi tàng trữ 02 gói ma túy heroine có khối lượng 0,2828g ở trong tất dưới cổ chân mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đinh Quang L đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù và phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù nên theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.

Xét thấy hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Hiện nay trên địa bàn thành phố V các tội xâm phạm quyền sở hữu và tội phạm liên quan đến ma túy đều đang có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy. Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã 05 lần bị đưa ra xét xử về cùng loại tội xâm phạm sở hữu và 01 lần bị quyết định áp dụng biện pháp áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, mặc dù không coi là tiền án, tiền sự nhưng thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báovà tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình cho bị cáo. Tuy nhiên, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định và tổng hợp hình phạt của 02 tội mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với người có liên quan:

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực ngõ 4, đường Trần Quốc Tuấn, phường Ngô Quyền, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 21/01/2021. Bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ này, Công an thành phố V đã tiến hành rà soát, xác minh nhưng chưa xác định nhân thân, lai lịch của người phụ nữ này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại Iphone XS Max và chiếc điện thoại Iphone 7 Plus là tài sản của chị Phùng Thị T. Ngày 05/4/2021, Công an thành phố V đã trả lại cho chị T, chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với 0,2326g ma túy heroine cùng bao gói còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Misubishi Attrage màu trắng, BKS:

88A-330.11 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thanh Hải. Chị Hải không biết hành vi phạm tội của bị cáo và cũng không biết bị cáo mượn xe để đi tiêu thu tài sản trộm cắp. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Quang L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Đinh Quang L chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 21/01/2021).

2. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,2326g ma tuý còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói (Đặc điểm như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 31/5/2021).

3. Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Đinh Quang L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về