Bản án 63/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020, đối với:

Bị cáo Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987 tại xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Nha Xuyên, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1958. Bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: 01. Tại bản án số 15/2019/HSST ngày 21/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Thanh T 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” và phải trả cho anh Đỗ Trung K, sinh năm 1987, trú tại xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình số tiền 600.000 đồng, đến ngày 08/3/2020 T chấp hành xong hình phạt tù và đã nộp án phí, nhưng chưa trả số tiền 600.000 đồng cho anh K.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2016 bị Đồn Công an bảo vệ trung tâm điện lực Thái Bình xử phạt hành chính về hành vi mua số lô đề trái phép theo quyết định số 25/QĐ-XPHC ngày 27/9/2016 bằng hình thức phạt tiền, số tiền 350.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2020 đến ngày 13/6/2020 chuyển tạm giam đến nay (có mặt)

Người chứng kiến:

- Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1962; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tình Thái Bình (vắng mặt)

- Anh Bùi Văn H2, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 10/6/2020, Nguyễn Thanh T đi nhờ xe của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ từ ngã tư xã T đến khu vực thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình thì xuống xe đi bộ để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. T cất gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay trái đi bộ về. Khi T đi được một đoạn thì bị tổ công tác Công an huyện T cùng Công an xã T phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và ông Phạm Văn T2, anh Bùi Văn H2, tổ công tác tiến hành kiểm tra người T đã thu giữ trong lòng bàn tay trái của T 01 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ và chữ in màu xanh, chữ viết màu tím, mở ra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong mẫu A1), T khai nhận đó là ma túy, loại Heroine của T vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong ma túy của T vào phong bì mẫu số A1, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T nhưng không phát hiện và thu giữ gì.

Tại bản Kết luận giám định số 219/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng trong phong bì niêm phong mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,1587 gam (không phẩy một nghìn năm trăm tám mươi bảy gam)”. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định này.

Cáo trạng số 64 ngày 04/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trong bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 10/6/2020, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,1272 gam ma túy, loại Heroine thu giữ của bị cáo Nguyễn Thanh T hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 219/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện T lập ngày 10/6/2020 (Bút lục số: 49-51); lời khai của những người chứng kiến là ông Phạm Văn T2, anh Bùi Văn H2 (bút lục số 75-82); Bản kết luận giám định số 219/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 57) và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ 0,1587 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 10/6/2020, tại đoạn đường thuộc thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép trong lòng bàn tay trái 0,1587 gam ma túy, loại Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân bị tổ Công tác Công an huyện T cùng Công an xã T bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy - Bộ luật hình sự quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam;

……….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cm đảm nhiệm chức vụ, cm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến an ninh, trật tự công cộng và an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, từng phải chấp hành hình phạt tù và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua số lô đề trái phép, nhưng bị cáo cũng không chịu lấy đó làm bài học kinh nghiệm, không chịu tu dưỡng bản thân, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ‘Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, có như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nói riêng cũng như răn đe, đấu tranh và phòng ngừa tội phạm nói chung. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, trước khi bị bắt làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định và không có tài sản riêng.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. về nguồn gốc số ma túy, T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ và không nhớ đặc điểm nhận dạng của người bán ma túy và người cho T đi nhờ xe, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý là đúng pháp luật.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 10/6/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1272 gam ma túy, loại Heroine thu giữ của bị cáo Nguyễn Thanh T hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 219/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Vật chứng nêu trên đã được quản lý tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/8/2020).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thuờng vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo Nguyễn Thanh T có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 26/8/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về