Bản án 63/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17/8/2020, tại Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2020/TLST-HS ngày 01/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HS ngày 31/7/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1994, tại tỉnh Bình Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố T, thị trấn P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm biển; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1 và bà Lê Thị Ngọc Ll; Có vợ: Nguyễn Thị Ngọc T2 và 01 con sinh năm 2012; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 28/6/2019 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn P áp dụng biện pháp giáo dục tại thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã từ ngày 14/4/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1975. (Vắng mặt)

Trú tại: Khu phố Song Thanh 3, thị trấn P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

- Người làm chứng: Bà Lê Thị Ngọc L2, sinh năm 1972. (Có mặt)

Trú tại: Khu phố T, thị trấn P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền mua ma túy sử dụng nên khoảng 20 giờ ngày 21/5/2019 Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số 86H2 - 5674 chạy trên tuyến đường liên xã Phan Rí Cửa - Bình Thạnh - Liên Hương để tìm tài sản trộm cắp. Khi ngang qua nhà hàng tiệc cưới Golden Palace ở khu phố 6, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong thì phát hiện nhà hàng đóng cửa nhưng không có người trông coi, bên hông nhà hàng có để nhiều sắt thi công mái vòm nên Nguyễn Văn L chạy xe mô tô vào dựng bên hông nhà hàng rồi đi vào khu vực bếp thấy có chiếc xe đẩy bên trên có để 3 giỏ xách bằng nhựa bên trong có chứa 01 máy cắt sắt hiệu Hao Mai, 01 máy hàn điện tử ARC-200A, 01 máy hàn điện tử hiệu HTC, 01 máy mài cầm tay hiệu DEWAIT, 01 máy mài cầm tay hiệu MAKTEC, 01 máy khoan cầm tay hiệu FEG, 01 máy khoan cầm tay hiệu SENCAN của Phạm Văn H dùng để thi công mái vòm nhà hàng. Nguyễn Văn L lén lút lấy toàn bộ tài sản mang ra ngoài để lên xe mô tô chạy về nhà cất giấu. Phát hiện bị mất tài sản Phạm Văn H làm đơn trình báo, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tuy Phong mời Nguyễn Văn L làm việc, L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp toàn bộ tài sản đã trộm cắp, sau đó Nguyễn Văn L bỏ trốn đến ngày 14/4/2020 thì bị bắt theo quyết định truy nã.

Theo Biên bản định giá tài sản và Bản kết luận định giá tài sản số 91/KL- HĐĐG ngày 05/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Phong, kết luận:

+ 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Hao Mai 355A: 800.000 đồng.

+ 01 máy hàn điện tử nhãn hiệu ARC-200A màu vàng, công suất 7KVA: 1.354.500 đồng.

+ 01 máy hàn điện tử nhãn hiệu HTC ARC 200B màu vàng, công suất 8,4KVA: 1.235.000 đồng.

+ 01 máy mài cầm tay (máy mài góc) nhãn hiệu DEWAIT DW810: 395.000 đồng.

+ 01 máy mài cầm tay (máy mài góc) nhãn hiệu MAKTEC MT961: 401.500 đồng.

+ 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu FEG EG-513: 225.000 đồng

+ 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu SENCAN 531027: 310.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản định giá: 4.721.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 55/CT/VKSTP-HS ngày 30/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 12 - 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ý kiến của bị cáo Nguyễn Văn L: Bị cáo bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan, nay bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Người bị hại Phạm Văn H được triệu tập hợp lệ nhung vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, người bị hại đã có lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra và đã được nhận lại toàn bộ tài sản bị trộm, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 21/5/2019 bị cáo Nguyễn Văn L đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Hao Mai 355A, 01 máy hàn điện tử nhãn hiệu ARC- 200A màu vàng, công suất 7KVA, 01 máy hàn điện tử nhãn hiệu HTC ARC 200B màu vàng, công suất 8,4KVA, 01 máy mài cầm tay (máy mài góc) nhãn hiệu DE WAIT DW810, 01 máy mài cầm tay (máy mài góc) nhãn hiệu MAKTEC MT961, 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu FEG EG-513, 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu SENCAN 531027 của ông Phạm Văn H. Theo kết luận định giá tài sản thì tổng trị giá các tài sản bị chiếm đoạt trên là 4.721.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự nhu cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo tự nguyện giao nộp toàn bộ tài sản chiếm đoạt để khắc phục hậu quả nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đối với tình tiết bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn P áp dụng biện pháp giáo dục tại thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 28/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong xác định đây là quá trình hoạt động của bản thân bị cáo là chua chính xác; Theo khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính “Có nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ... mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính” do đó Hội đồng xét xử nhận định đây là tiền sự của bị cáo. Xét thấy bị cáo đã bị xử lý hành chính do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nay do cần tiền mua ma túy sử dụng bị cáo cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người khác. Sau khi khai nhận hành vi phạm tội tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã, hành vi của bị cáo gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh ở địa phương nên cần xử phạt nghiêm để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về xử lý vật chứng: Tại phiên tòa, bị cáo và bà Lê Thị Ngọc L2 đều khai bà Liên không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô biển số 86H2 - 5674 của bà Liên để đi trộm cắp tài sản. Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ chiếc xe mô tô trên và trả lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt trên cho người bị hại Phạm Văn H là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 14/4/2020.

2. Về án phí:

Áp dụng: Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về