Bản án 63/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Tr V Th, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2000 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp K, xã T, huyện V, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tr V H, sinh năm 1967 và bà L Th T, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17 tháng 3 năm 2017, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 24 tháng 10 năm 2017. Ngày 28 tháng 12 năm 2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 15 tháng 9 năm 2018; bị bắt, tạm giam từ ngày 29 tháng 8 năm 2019 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Đ V C, sinh năm 2000; địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang, vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Ng V Đ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tr V Th và Đ V C là bạn bè cùng quê. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019 sau khi Th và C cùng nhau đi ăn uống đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày Th điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, Biển số 60V9-0722 còn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1 – 249.61 đến nhà nghỉ Hoa Anh Đào tại khu phố Bình Hòa, phường Lái Thiêu, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thuê phòng để nghỉ qua đêm. Tại đây, Th đưa chứng minh nhân dân của Th cho ông Ng V Đ là nhân viên của nhà nghỉ để thuê phòng số 304 rồi Th và C lên phòng nghỉ. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 26 tháng 8 năm 2019 Th thấy C đã ngủ say nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61 của C để dùng cho việc đi lại cá nhân. Th phát hiện 01 chiếc chìa khóa xe C bỏ trong túi quần phía trước bên trái C đang mặc. Th lén lút dùng tay phải lấy chiếc chìa khóa xe môtô trên ra khỏi túi quần của C, rồi tiếp tục dùng thay phải lấy ví trong túi quần sau bên phải của C, Th mở ví thấy trong ví có số tiền 50.000 đồng nên Th không lấy rồi ném chiếc ví lại trên giường chỗ C nằm. Sau đó, Th cầm chìa khóa xe đi xuống bãi để xe của nhà nghỉ lấy xe môtô Biển số 68 N1-249.61 của C chạy ra gặp ông Đ là nhân viên nhà nghỉ để lấy chứng minh nhân dân của Th nhưng ông Đ không đồng ý, Th nói với ông Đ lấy xe ra ngoài mua đồ, ông Đ yêu cầu Th phải có giấy tờ để thay thế chứng minh nhân dân nên Th đã đưa thẻ công nhân của Th cho ông Đ và lấy lại giấy chứng minh nhân dân, đồng thời Th bỏ lại chiếc xe Dream, Biển số 60V9-0722 lại nhà nghỉ rồi điều khiển xe mô tô của C về khu vực khóm Châu Long 8, phường Châu Phú B, Châu Đốc, An Giang thăm người yêu. C sau khi tỉnh dậy không thấy Th đâu, phát hiện bị mất chìa khóa xe nên chạy xuống quầy tiếp tân hỏi ông Đ thì được biết Th đã lấy xe, C liền đến Công an phường Lái Thiêu trình báo sự việc. Đến ngày 27 tháng 8 năm 2019, do xe của C có cài đặt định vị nên phát hiện xe đang ở khu vực khóm Châu Long 8, phường Châu Phú B, Châu Đốc, An Giang nên Cơ cùng đội hiệp sĩ Bình Dương xuống Khóm Châu Long 8, đồng thời báo Công an phường Châu Phú B đến địa chỉ nêu trên bắt giữ Th cùng tang vật.

Tang vật thu giữ trong vụ án: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61.

Tại biên bản định giá tài sản và Kết luận định giá tài sản ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An kết luận: 01 chiếc xe nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61 trị giá 58.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKS-TA ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Tr V Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Tr V Th mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Và đề nghị xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự cụ thể:

Đi với 01 chiếc xe nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61 là tài sản của Đ V C bị Thắng chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông C.

Đi với xe ô mô tô hai bánh kiểu dáng Dream; số máy VKV1P50FMG- 30119962, số khung: Không, gắn Biển số 60V9-0722 là xe của Th sử dụng trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Th khai mượn của bạn không rõ nhân thân, địa chỉ. Qua điều tra xác định biển số xe nêu trên được Công an huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai cấp xe môtô hiệu WUYANGWY, số loại C100, số máy 00062220, số khung 6H062220, chủ xe là bà D Th D, địa chỉ: Ấp 2, xã Phú Ngọc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Qua xác minh, bà D không đăng ký thường trú tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không làm việc được với bà D. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe và biển số nêu trên trên đài truyền hình Bình Dương, nhưng đến nay chưa có người đến nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao cho Công an thị xã Thuận An xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Đ V C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa: Bị cáo Tr V Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố và không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Tr V Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà và tại cơ quan điều tra đều thống nhất với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào ngày 26 tháng 8 năm 2019 tại nhà nghỉ Hoa Anh Đào thuộc khu phố Bình Hòa, phường Lái Thiêu, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, Tr V Th đã có hành vi lấy trộm 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61 của Đ V C, trị giá 58.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi của bị cáo Tr V Th là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm, nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo lợi dụng sự sơ hở rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tội phạm và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét tính chất, mức độ phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 17 tháng 3 năm 2017, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 24 tháng 10 năm 2017; ngày 28 tháng 12 năm 2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 15 tháng 9 năm 2018.

[7] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất hành vi tội phạm mà bị cáo đã thực hiện nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Ông Đ V C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SoNic, Biển số 68N1-249.61 là tài sản của Đ V C bị Thắng chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông C là phù hợp.

Đi với xe mô tô hai bánh, kiểu dáng Dream, số máy VKV1P50FMG- 30119962, số khung: Không, gắn Biển số 60V9-0722 là xe của Th sử dụng trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Th khai mượn của bạn không rõ nhân thân, địa chỉ. Qua điều tra xác định biển số xe trên được Công an huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai cấp xe mô tô hiệu WUYANGWY, số loại C100, số máy 00062220, số khung 6H062220, chủ xe là bà D Th D; địa chỉ: Ấp 2, xã Phú Ngọc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Qua xác minh, bà D không đăng ký thường trú tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không làm việc được với bà D. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe và biển số trên trên đài truyền hình Bình Dương, nhưng đến nay chưa có người đến nhận. Do đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giao cho Công an thị xã Thuận An xử lý theo thẩm quyền là phù hợp.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Tr V Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Tr V Th 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 8 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An 01 xe mô tô hai bánh, kiểu dáng Dream, số máy VKV1P50FMG- 30119962, số khung: Không, gắn Biển số 60V9-0722 (không gương chiếu hậu, không chìa khóa xe, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy, xe không bửng, không dè) để tiếp tục xác minh và giải quyết theo thẩm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Bị cáo Tr V Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về