Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 05 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn C; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 17/10/1978 tại xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản C, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: lớp 03/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn V và bà Kha Thị H (Đã chết); vợ đầu là Mạc Thị M (đã ly hôn) vợ hai Bùi Thị K; có 02 (hai) con; tiền án; tiền sự: không; nhân thân: ngày 15/01/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An kết án 15 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 27/12/2014; bị bắt từ ngày 12/02/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công Th - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An. Có mặt;

- Người làm chứng: Moong Văn Kh; sinh năm 1983; Trú tại: bản L, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 12/02/2019, Lương Văn C đi bộ trong khu vực bản X, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì gặp một người đàn ông tên Vi Văn Q, (Q tự giới thiệu người ở bản X, xã CL, huyện KS), Lương Văn C hỏi Q “Có biết chỗ nào bán ma tuý không?”, Q trả lời “Ở đây không có”, sau đó Lương Văn C thuê Q chở vào bản S, xã LM, huyện TD, tỉnh Nghệ An hết 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Khi đến bản S, Lương Văn C gặp một người đàn ông không quen biết tên Tút rồi hỏi mua của người này 01 (một) gói heroine với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Mua ma tuý xong, Lương Văn C đi bộ xuống đường rồi nói với Q “Có ma tuý đây rồi nhưng không có xi lanh, ra ngoài tìm mua xi lanh rồi sử dụng” thì Q đồng ý. Khi hai người đi đến bản L, xã CL, huyện KS thì bị Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lương Văn C 01 (một) gói chất màu trắng (nghi là Heroine) được gói bằng vỏ bao thuốc lá cò mềm. Quá trình bắt giữ Vi Văn Q lợi dụng sơ hở trốn thoát.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 10 giờ ngày 13/02/2019 đã xác định: Chất màu trắng (nghi là Heroine) thu giữ của Lương Văn C có khối lượng 0,5g (Không phẩy năm gam), Hội đồng đã trích 0,05g (Không phẩy không năm gam) làm mẫu gửi giám định.

Kết luận giám định số 365/KL-PC09(MT) ngày 18/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Lương Văn C gửi tới giám định là ma tuý (Heroine).

Cáo trạng số 60/CT-VKS-HS ngày 23/04/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Lương Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lương Văn C đã khai nhận hành vi của mình với các tình tiết như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận có mua 01 gói ma túy Heroine với một người không quen biết với mục đích là để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Văn C mức án từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác đã thu thấp được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung cáo trạng đã truy tố nên đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/02/2019 Lương Văn C bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ 0,5g (Không phẩy năm gam) ma túy heroine nhằm mục đích để sử dụng. Vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)…………………….

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lương Văn C là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe của con người, là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, ngoài ra bị cáo đã từng bị kết án, tuy đã xóa án tích nhưng chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật, không lấy lần bị kết án trước làm bài học cho mình để tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục cố ý phạm tội đã làm ảnh hưởng đến đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần phải tuyên phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nương rẫy nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[4] Đối với đối tượng tên Tút đã bán ma túy cho Lương Văn C, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý. Đối với đối tượng Vi Văn Q đã cùng bị cáo đi mua ma túy, theo bị cáo khai nhận là trú tại bản X, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An, tuy nhiên quá trình điều tra xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên là Vi Văn Q nên không có căn cứ để xử lý.

[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy thu heroine giữ của Lương Văn C, sau khi đã trích mẫu gửi đi giám định thì số còn lại là 0,45g (Không phẩy bốn mươi lăm gam), đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lương Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lương Văn C 18 (Mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/02/2019 (ngày bị cáo bị bắt).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Lương Văn C, trong đó phong bì thư thu giữ của bị cáo bên trong chứa 0,45g (Không phẩy bốn mươi lăm gam) heroine. Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 50 phút ngày 22/04/2019 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về