Bản án 63/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Khánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2019TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Thị C, sinh năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn T 1, xã C, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C1 và bà Đinh Thị K; có chồng Nguyễn Đình P và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2017;

Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS-ST ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt C 27 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 16-11-2018 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với C với lý do C đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/08/2019 tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đình P, sinh năm 1984; trú tại: Thôn H, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; có mặt

-Người làm chứng: Anh Mai Xuân Đ, sinh năm 1981; trú tại: Thôn G, xã C, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

-Người chứng kiến:

+ Ông Vũ Văn B, sinh năm 1953; trú tại: Thôn G, xã C, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

+ Chị Lã Thị N, sinh năm 1984; trú tại: Thôn G, xã C, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 40 phút ngày 06-08-2019 tổ công tác của Công an huyện Yên Khánh đang làm nhiệm vụ tại thôn G, xã C, huyện Y thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, có một người phụ nữ đang điều khiển xe mô tô BKS 35G1 – 03630 hướng từ Ủy ban nhân dân xã ra thôn G, xã C có cất giấu ma túy trong người. Khi phát hiện thấy người phụ nữ điều khiển xe mô tô đi đến, tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra, người phụ nữ khai tên là Vũ Thị C, sinh năm 1990 ở thôn T 1, xã C, huyện Y. Kiểm tra túi quần phía trước bên trái của C, thu giữ 01 gói được gói bằng 02 thẻ điện thoại Vinaphone mệnh giá mỗi thẻ 100.000 đồng (đã qua sử dụng), bên trong có 01 túi nilon có chứa chất tinh thể màu trắng; Thu giữ của C01 xe mô tô BKS 35G1 – 03630, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 và số tiền 188.000 đồng. Tổ công tác niêm phong vật chứng thu giữ của Vũ Thị C.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Thị C, Cơ quan điều tra thu giữ 01 vỏ chai nhựa, trên nắp chai có đục 02 lỗ, mỗi lỗ được đút 1 ống nhựa (loại ống hút), 02 vỏ túi nilon, 01 bật lửa ga và 01 ống nhựa (loại ống hút) màu hồng nhạt, một đầu được bóp dẹt.

Quá trình điều tra, Vũ Thị C khai nhận các đồ vật thu giữ khi khám xét nơi ở của C là C dùng để sử dụng ma túy đá, chất tinh thể màu trắng thu giữ trên người C là ma túy, C mua về sử dụng cho bản thân. Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng đã thu giữ của Vũ Thị C để trưng cầu giám định. Tại bản kết luận giám định số 262/KLGĐ-PC09-MT ngày 08-08-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Tổng khối lượng chất dạng tinh thể màu trắng trong các mẫu gửi giám định là 0,14 gam. Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy thuộc bảng danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15-05-2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra Vũ Thị C thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Cáo trạng số 63/CT-VKSYK ngày 31-10-2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Khánh truy tố bị cáo Vũ Thị C về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Tuyên bố bị cáo Vũ Thị C phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Thị C từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp với hình phạt 27 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS -ST ngày 27-09-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 45 tháng đến 51 tháng tù ; thời hạn chấp hành hình phạt chung được tính từ ngày bắt tạm giam 08-08-2019, được trừ đi 03 ngày tạm giữ .

-Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì Công an tỉnh Ninh Bình số 262/KLGĐ-PC09-MT bên ngoài ghi mẫu vật hoàn trả bên trong chứa 0,0661 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì Công an tỉnh Ninh Bình, mặt ngoài có ghi mẫu giám định M2+M3+M4 có chứa 01 vỏ túi nilon, 02 thẻ điện thoại đã sử dụng; 01 phong bì thư Công an huyện Yên Khánh bên ngoài ghi: Vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M; 01 vỏ chai nhựa, trên nắp chai có đục 02 lỗ, mỗi lỗ được đút 1 ống nhựa (loại ống hút), 02 vỏ túi nilon, 01 bật lửa ga và 01 ống nhựa (loại ống hút) màu hồng nhạt, một đầu được bóp dẹt.

Tại phiên tòa bị cáo C đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đình P xác định Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Khánh đã trả cho anh chiếc xe mô tô biển kiểm soát 35G1 – 03630 thuộc quyền sở hữu của anh do anh không biết chị C cất giấu ma túy trong người khi sử dụng xe mô tô này. Anh được chị C ủy quyền nhận lại chiếc điện thoại di động Nokia 106 và số tiền 188.000 đồng của chị C do Cơ quan điều tra trả lại. Anh không có ý kiến, đề nghị gì khác trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Yên Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai tại phiên toà của bị cáo Vũ Thị C đúng như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận: Hồi 18 giờ 40 ngày 06-08-2019 tại thôn G, xã C, huyện Y, Vũ Thị C có hành vi tàng trữ trên người 0,14 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an huyện Yên Khánh phát hiện. Methamphetaminelà chất ma túy có số thứ tự 223 thuộc Bảng danh mục II ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ -CP ngày 15-05-2018 của Chính phủ.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ là Methamphetamine là chất ma tuý bị Nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi cất giữ trái phép 0,14 gam Methamphetamine của bị cáo C đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ mà còn là nguyên nhân phát sinh của nhiều tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Sử dụng ma túy để lại hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và cộng đồng, tiêu tán tài sản, phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Bị cáo đã bị kết án về tội mua bán trái phéo chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

-Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo đã bị kết án và đang được hoãn thi hành án về tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ bị cáo khó giáo dục, cải tạo.

[6] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo C một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo C phạm tội để phục vụ cho nhu cầu của bản thân, qua xác minh bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS -ST ngày 27-09-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt C 27 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 16-11-2018 Tòa án nhân dân thành phố thành phố Ninh Bình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù với lý do Cđang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Như vậy khi xét xử C đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới sau đó tổng hợp với hình phạt C chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 và khoản 2 điều 56 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, xét xử lần phạm tội trước C bị tạm giữ 3 ngày từ ngày 15-05-2018 đến ngày 18-05-2018 nên được trừ đi 03 ngày tạm giữ khi quyết định hình phạt chung.

Về nguồn gốc ma túy: Cơ quan điều tra không xác định được người đàn ông bán ma túy cho Clà ai, ở đâu nên không có căn cứ xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Cơ quan Điều tra đã trả lại cho Nguyễn Đình P là chồng của bị cáo Ccác tài sản gồm: 01 xe mô tô BKS 35G1 – 03630 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Phong; 01 chiếc điện thoại di động Nokia 106 và số tiền 188.000 đồng của Ckhông liên quan đến hành vi phạm tội là có căn cứ. Vật chứng còn lại gồm 01 phong bì Công an tỉnh Ninh Bình số 262/KLGĐ-PC09 -MT bên ngoài ghi mẫu vật hoàn trả bên trong chứa 0,0661 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì Công an tỉnh Ninh Bình, mặt ngoài có ghi mẫu giám định M2+M3+M4 có chứa 01 vỏ túi nilon, 02 thẻ điện thoại đã sử dụng; 01 phong bì thư Công an huyện Yên Khánh bên ngoài ghi: Vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M; 01 vỏ chai nhựa, trên nắp chai có đục 02 lỗ, mỗi lỗ được đút 1 ống nhựa (loại ống hút), 02 vỏ túi nilon, 01 bật lửa ga và 01 ống nhựa (loại ống hút) màu hồng nhạt, một đầu được bóp dẹt liên quan đến hành vi phạm tội là cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1 Điều 55 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 1. Tuyên bố bị cáo Vũ Thị C phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Vũ Thị C 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp với hình phạt 27 (hai mươi bảy) tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS -ST ngày 27-09-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình buộc bị cáo Vũ Thị C phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 48 (bốn mươi tám) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt chung được tính từ ngày bắt tạm giam 08-08-2019, được trừ đi 03 ngày tạm giữ (từ ngày 15-05-2018 đến 18-05-2018).

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,0661 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định cùng toàn bộ vỏ, bao gói mẫu giám định (được niêm phong trong 01 phong bì ghi số 262/KLGĐ – PC09 – MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình; 01 vỏ túi nilon và 02 thẻ điện thoại đã sử dụng ( được niêm phong trong 01 phong bì Công an tỉnh Ninh Bình, mặt ngoài có ghi mẫu giám định M2+M3+M4); 01vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M ( được niêm phong trong 01 phong bì thư Công an huyện Yên Khánh ký hiệu N); 01 vỏ chai nhựa, trên nắp chai có đục 02 lỗ, mỗi lỗ được đút 1 ống nhựa (loại ống hút); 02 vỏ túi nilon màu trắng, 01 bật lửa ga và 01 ống nhựa màu hồng nhạt, một đầu được bóp dẹt.

(Vt chứng có đặc điểm như mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Khánh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Khánh).

3. Về án phí: Bị cáo Vũ Thị C phải nộp 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai , bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/11/2019).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về