Bản án 63/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Hảng Thị D, sinh năm 1981 tại huyện M, tỉnh Yên Bái.

Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Hảng Cáng S, đã chết; Con bà: Lý Thị N, sinh năm 1948.

Bị cáo có chồng Kháng A D, sinh năm 1982 và 05 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 05/6/2019, tạm giam ngày 13/6/2019, có mặt.

* Bản án 63/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma tuý

Ngời bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Đình M, Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Hồ A D, sinh năm 1984, địa chỉ: Bản H, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 05 tháng 6 năm 2019, Hảng Thị D đi bộ từ lán chăn nuôi của gia đình ở bản H, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên lên lán nương để phun thuốc trừ cỏ. Trên đường đi thì bị cáo gặp một người đàn ông chở theo một người phụ bằng xe máy bị cáo không rõ lai lịch. Qua trao đổi, bị cáo đã mua được của một người đàn ông đó một gói ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng. Mua được ma túy, bị cáo cho vào túi thổ cẩm đeo trên người rồi lên lán nương. Khi đến lán nương, bị cáo lấy gói ma túy tổng hợp ra đếm lấy 18 viên gói riêng bằng giấy ni lông màu hồng. Số ma túy còn lại 100 viên bị cáo gói bằng giấy ni lông màu xanh cho vào túi thổ cẩm rồi về nhà. Hảng Thị D về lán chăn nuôi ăn cơm cùng chồng xong thì bị lực lượng Đồn Biên phòng N phát hiện bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ Methamphetamine trong túi thổ cẩm đeo trên người. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Cáo trạng số 63/CT-VKSNP ngày 30/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Hảng Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38, Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Hảng Thị D từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội và lời bào chữa của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ phạm tội:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 21 giờ 00 phút ngày 05/6/2019 bút lục 01, 02 chứng minh bị cáo Hảng Thị D bị bắt khi đang tàng trữ ma túy. Tổ công tác Đồn Biên phòng N tạm giữ của bị cáo hai gói ni lông một màu xanh một màu hồng. Bên trong gói ni lông màu xanh có chứa 100 viên nén màu hồng, bên trong gói ni lông màu hồng có chứa 18 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 16 giờ 30 phút ngày 06/6/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N bút lục số 11, 12 thì khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Hảng Thị D là 11,56 gam, trích mẫu gửi giám định 0,99 gam.

Kết luận giám định số 581/GĐ-PC09 ngày 13/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 41 các mẫu viên nén trích ra từ vật chứng thu giữ của Hảng Thị D gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, mục IIC danh mục II Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Hảng Thị D có tội. Bị cáo đã mua ma túy là Methamphetamine về nhà tàng trữ cho chồng bị cáo sử dụng để chữa đau tay. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hảng Thị D có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[2] Về tính chất mức độ phạm tội:

Khối lượng ma túy bị thu giữ của Hảng Thị D là 11,56 gam Methamphetamine. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 05 gam đến dưới 30 gam. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù.

[3] Về nhân thân của bị cáo:

Bị cáo sinh ra và lớn lên ở huyện M, tỉnh Yên Bái. Năm 1996, bị cáo lấy chồng làm ăn, sinh sống tại bản H, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Bị cáo cố tình nhận thức sai lầm về cách chữa bệnh đau tay bằng ma túy mà phải nhận một bản án không đáng có.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối chiếu các quy định tại khoản 1 của Điều 52 Bộ luật hình sự thì bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt. Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về hình phạt bổ sung:

Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Hảng Thị D.

[8] Về vật chứng:

Vật chứng của vụ án là 11,56 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi giám định 0,99 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng này tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vật chứng là một túi thổ cẩm có dây đeo, đây là phương tiện bị cáo sử dụng để cất giấu Heroine do vậy tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do vậy Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

[11] Các vấn đề khác:

Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một đàn ông và một người phụ nữ lạ mặt bị cáo không rõ lai lịch ở trên đường từ nhà bị cáo lên lán nương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có đủ cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Hảng Thị D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Hảng Thị D 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 05/6/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 11,56 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi giám định 0,99 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng còn lại 10,57 gam và 01 túi thổ cẩm có dây đeo, toàn bộ một túi nilon màu xanh, một túi nilon màu hồng và phong bì niêm phong cũ của Đồn Biên phòng N. Vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng hồi 16 giờ 00 phút ngày 30/10/2019 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Hảng Thị D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 19/11/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về