Bản án 63/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HS ngày 01tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn M, sinh năm 1986 tại xã Gi, huyện Gi, tỉnh Ninh Bình; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Xóm 10, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tinh: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Hoàng Thị K; có vợ là Nguyễn Thị Th và 01 con sinh năm 2019; tiền án: Không Tiền sự: Ngày 20/6/2018 Công an xã Gi, huyện Gi xử phạt 1.000.000đ hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.

Về nhân thân: Tại bản án số 01/2005/HSST năm 2005 Lê Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Gi, tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/8/2004.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 14/5/2019, chuyển tạm giam ngày 16/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt

- Những người làm chứng: anh Đinh Song H, sinh năm 1964; anh Đinh Công B, sinh năm 1995.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn M là người nghiện ma túy; khoảng 14 giờ 30 phút ngày 14/5/2019, M đi bộ từ nhà ở thôn 10, xã Gi, huyện Gi ra ngoài đường thôn sau đó đi nhờ xe của một người không quen biết đến huyện N, tỉnh Ninh Bình để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực Ủy ban nhân dân xã L, huyện N thì M xuống xe đi bộ đến gặp và hỏi một người nam giới (M không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở bên đường “Anh có hàng không” - Ý M hỏi mua Heroine. Người nam giới trả lời “Có mua bao nhiêu đưa tiền đây” thì M lấy 200.000 đồng đưa cho người nam giới. Sau khi nhận tiền người này đã bán cho M 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. Lê Văn M mở ra kiểm tra xác định đúng là Heroine nên gói lại và cầm ở tay phải rồi M đi bộ về nhà. Khi đi đến khu vực ngã tư thuộc địa phận thôn Mỹ Quế, xã G, huyện N thì M gặp Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã G đang làm nhiệm vụ tuần tra. Do sợ bị phát hiện nên Lê Văn M đã ném gói Heroine đang cầm trên tay phải xuống mặt đường đã bị tổ công tác phát hiện lập biên bản thu giữ 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột dạng cục màu trắng. M khai nhận đó là gói Heroine vừa mua về nhằm mục đích sử dụng cho bản thân ngoài ra không thu giữ thêm đồ vật, tài sản gì khác.

Cân xác định trọng lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng thu giữ của Lê Văn M có trọng lượng 0,23gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số154/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,2357 (không phẩy hai nghìn ba trăm năm bảy)gam là ma túy, loại Heroine.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0,1811 (không phẩy một nghìn tám trăm mười một) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 154/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của của bị cáo Lê Văn M đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình; Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không khiếu nại gì về kết luận giám định số số154/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình .

Tại bản cáo trạng số 57/CT-VKSNQ-HS ngày 25/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Lê Văn M về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện VKS giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lê Văn M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù thời hạn tính từ ngày tạm giữ 14/5/2019. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: Đối với 0,1811 (không phẩy một nghìn tám trăm mười một) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 154/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số 154/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định: Hồi 15 giờ ngày 14/5/2019, tại khu vực ngã tư thuộc địa phận thôn Mỹ Quế, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã G phát hiện bắt quả tang Lê Văn M có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,2357 gam heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:

Hành vi tàng trữ 0,2357 gam heroine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Lê Văn M là cố ý, nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ heroine của mình bị Nhà nước cấm. Bị cáo nhận thức được nghiện ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc, áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo. Như vậy, mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.

Trong vụ án này, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán heroin cho bị cáo nên không có căn cứ để xử lý.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy tàng trữ nhằm sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Mặt khác, bị cáo là người nhiễm HIV, có con nhỏ, lao động tự do. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng: Đối với 0,1811 (không phẩy một nghìn tám trăm mười một) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 154/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật. Xét đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 14/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1811 (không phẩy một nghìn tám trăm mười một) gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 154/KLGĐ-PC09-MT .

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2019 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Lê Văn M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về