Bản án 63/2019/HS-PT ngày 28/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 63/2019/HS-PT NGÀY 28/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 573/2018/TLPT-HS ngày 21 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Chung Bá N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 143/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận 7.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo, bị kháng nghị: Chung Bá N; sinh ngày 22 tháng 02 năm 2000 tại tỉnh Sóc Trăng; giới tính: Nam; thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chung S (chết) và bà Phạm Thị Út E; không có vợ con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 22/10/2015 (có mặt).

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Ngoài ra còn có 02 (hai) bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị: Người bào chữa cho bị cáo: NBC, Luật sư (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chung Bá N và Nguyễn Trung Đ là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định nên đã bàn bạc với nhau đi trộm cắp tài sản bằng thủ đoạn dùng đoản sắt lục giác cạy phá khóa các nhà đi vắng khóa cửa ngoài, đột nhập vào nhà trộm cắp các tài sản có giá trị để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. N và Đ phân công thay phiên nhau một người đứng ngoài cảnh giới, còn một người bẻ khóa đột nhập vào nhà, các tài sản bị chiếm đoạt gồm: Tiền, vàng, xe máy, điện thoại di động, máy tính bảng, laptop, máy ảnh, đồng hồ ... Sau khi trộm được vàng thì cả hai đem đến bán tại tiệm D – đường G, Phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; còn máy tính bảng, laptop, điện thoại di động bán tại tiệm K – đường L, Phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; riêng xe máy thì cả hai sử dụng làm phương tiện trộm cắp. N và Đ khai nhận đã thực hiện 26 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận M trong thời gian từ tháng 7/2015 đến tháng 10/2015, cụ thể như sau:

Vụ 1: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 08/7/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu xám, biển số 52P2-5654 chở N đến nhà trọ đường O, khu phố P, Q, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Trần Thị Huỳnh H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 1 laptop hiệu Asus K451L màu đen để gần cửa ra vào. Lấy trộm được tài sản, cả hai đem bán laptop trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K đường L, Phường H, Quận I được 800.000 đ, chia nhau mỗi người được 400.000 đ, tiêu xài cá nhân hết.

Theo Kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 1 laptop hiệu Asus K451LA màu đen có giá trị là 8.000.000 đ.

Vụ 2: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/8/2015, Đ điều khiển xe máy Wave màu xám, biển số 52P2-5654 chở N đến nhà trọ số 2-4, đường 28, khu phố Y, phường Ê, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Phạm Thùy T1 làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop hiệu Acer màu xám để trên bàn và 400.000 đ để trong ngăn tủ. Lấy được tài sản, cả hai đem laptop bán cho tiệm K được 2.000.000 đ. Bọn chúng chia nhau mỗi người được 1.200.000 đ và tiêu xài cá nhân hết.

(01 laptop hiệu Acer màu xám do bị hại không cung cấp được model sản phẩm nên không định giá được).

Vụ 3: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/8/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu xám, biển số 52P2-5654 chở N đến nhà trọ đường R, khu phố P, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Trương Văn K làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 01 máy laptop hiệu Asus X452LAV màu đen để trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán laptop trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 2.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.000.000 đ chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận M thì 01 máy laptop hiệu Asus X452LAV có giá trị là 3.000.000 đ.

Vụ 4: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/9/2015, Đ và N đi bộ đến nhà trọ đường U, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Nguyễn Thị Thu H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 xe máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 29T7 – 3442 và số tiền 800.000 đ. Số tiền trộm cắp được cả hai chia nhau mỗi người 400.000 đ tiêu xài, còn xe máy thì cả hai sử dụng chung với nhau để đi trộm cắp tài sản.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 xe máy hiệu Honda Wave biển số 29T7 – 3442 có giá trị là 5.000.000 đ.

Vụ 5: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 04/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ (xe lấy trộm tại nhà trọ đường U, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh đã tháo biển thật 29T7 - 3442 và gắn biển giả số 66S1 - 17748) chở N đến nhà trọ đường R, khu phố P, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Nguyễn Ngọc H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 01 máy laptop hiệu Sony Vaio màu hồng trên bàn học, 01 điện thoại di động Nokia 1202 vỏ gỗ màu đen, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen, và 700.000 đ. Lấy được tài sản, cả hai đem bán máy laptop và 02 điện thoại trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 1.500.000 đ, cộng với số tiền 700.000 đ lấy trộm được, cả hai chia nhau mỗi người được 1.100.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 điện thoại di động Nokia 1202 vỏ gỗ màu đen có giá trị là 150.000 đ, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen có giá trị là 150.000 đ. Riêng 01 máy laptop hiệu Sony Vaio màu hồng bị hại không cung cấp được model nên Hội đồng không thể định giá được.

Vụ 6: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 07/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ, gắn biển số 66S1 - 17748 chở N đến nhà trọ đường X, khu phố Y, phường Ê, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Minh H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được: 01 laptop hiệu Dell màu đen và 02 bộ nữ trang bằng vàng trong tủ quần áo (bộ nữ trang bằng vàng PNJ có 01 đôi bông tai, 01 sợi dây chuyền có mặt hình trái tim đá màu trắng, 01 nhẫn kiểu gắn đá màu trắng và bộ nữ trang bằng vàng 18k có 01 đôi bông tai, 01 sợi dây chuyền có mặt hình trái tim, 01 nhẫn kiểu gắn đá màu đen). Lấy được tài sản, cả hai đem laptop bán cho tiệm K được 2.500.000 đ, số vàng bán cho tiệm D tại đường G, Phường  H,  Quận  I  được  7.000.000  đ.  Cả  hai  chia  nhau  mỗi  người  được 4.750.000 đ và tiêu xài cá nhân hết.

(01 laptop hiệu Dell màu đen và 02 bộ nữ trang bằng vàng trong tủ quần áo, bị hại không cung cấp được model sản phẩm và giấy tờ mua bán vàng nên không định giá được)

Vụ 7: Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 09/9/2015, Đ điều khiển xe máy Wave màu đỏ gắn biển số 66S1 - 17748 chở N đến nhà đường O, khu phố P, phường Q, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Võ Văn Đ làm chủ. Thấy nhà khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ thì đứng ngoài cảnh giới, còn N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau khi mở xong ổ khóa cửa thì N vào trong nhà, lên lầu 1 lấy trộm được 2 cọc tiền toàn mệnh giá 50.000 đ để ở trong tủ quần áo, lấy xong Đ chở N tẩu thoát. Khi về đến khách sạn Ô tại đường Ơ, xã Ư, huyện N, cả hai đếm được 25.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 12.500.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

Vụ 8: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12/9/2015, Đ và N đi bộ đến phòng số 7 nhà trọ đường Ă, khu phố Â, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Phạm Thị T làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop Sony Vaio màu đen, 01 đồng hồ không rõ hiệu màu trắng, 01 máy chụp hình Canon màu xanh, 01 dây chuyền bạc, 01 lắc tay màu trắng và 01 điện thoại Nokia cũ. Lấy xong Đ và N tẩu thoát. Sau đó, cả hai đem bán laptop và điện thoại củ trên tại tiệm K được 2.500.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.250.000 đ và tiêu xài cá nhân hết. Còn số nữ trang, do đồ giả nên cả hai đã vứt không rõ ở đâu.

(Tất cả tài sản trên do bị hại không cung cấp được hóa đơn mua bán và model sản phẩm nên không định giá được)

Vụ 9: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến nhà đường U, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Nguyễn Dương Minh H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 Ipad 4 màu trắng, 01 kim từ điển màu đen để trong tủ quần áo. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 01 ipad màu trắng trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 1.500.000 đ, chia nhau mỗi người được 750.000 đ, số tiền này bọn chúng đã tiêu xài cá nhân hết, còn máy kim từ điển không bán được nên cả hai vứt bỏ ở thùng rác ven đường, không nhớ rõ ở đâu.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 ngày 26/10/2015 thì 01 Ipad 4 màu trắng có giá trị là 5.500.000 đ, còn 01 kim từ điển màu đen, bị hại không cung cấp được model sản phẩm nên Hội đồng không định giá được.

Vụ 10: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến nhà trọ đường Ă, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Võ Thu H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 1.500.000 đ; 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu Buberry màu trắng và 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu D&G màu vàng. Lấy được tài sản, cả hai chia nhau mỗi người được 750.000 đ tiêu xài cá nhân hết, còn đồng hồ thì Đ và N chia nhau mỗi người 01 chiếc sử dụng.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 ngày 26/10/2015 thì 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu Buberry màu trắng có giá trị là 200.000 đ và 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu D&G màu vàng có giá trị là 200.000 đ.

Vụ 11: Vào khoảng 05 giờ 00 phút ngày 20/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến nhà trọ đường O, khu phố PA, Q, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Lê Thị Bích C làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 điện thoại hiệu Asus Zenphone 4 màu đen, 01 điện thoại Samsung Galaxy A5 màu trắng. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 02 điện thoại trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 2.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.000.000 đ, tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận M thì 01 điện thoại hiệu Asus Zenphone 4 màu đen có giá trị là 800.000 đ, 01 điện thoại Samsung Galaxy A5 màu trắng có giá trị là 3.500.000 đ.

Vụ 12: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 20/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến nhà trọ đường Ă, khu phố P, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Đồng Minh T làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop hiệu Acer 4752 màu đen ở dưới đất, 01 điện thoại cảm ứng HTC Mozart màu đen ở trên gác và 200.000 đ trong tủ. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 01 máy laptop trên tại tiệm K, được 2.000.000 đ, cùng với số tiền 200.000 đ chia nhau mỗi người được 1.100.000 đ, tiêu xài cá nhân hết. Còn điện thoại HTC màu đen cả hai để lại sử dụng nhưng đã bị mất ở đâu không rõ.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 laptop hiệu Acer 4752 màu đen có giá trị là 2.500.000 đ, 01 điện thoại cảm ứng HTC Mozart màu đen có giá trị là 700.000 đ.

Vụ 13: Vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 21/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến nhà đường S, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Phạm Thanh L làm chủ. Thấy nhà khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 xe máy Yamaha Sirius màu đen, biển số 69M1 – 028.93 và 01 laptop hiệu Asus màu đen để ở trên giường và 03 dấu mộc. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 01 Laptop tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 2.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.000.000 đ tiêu xài cá nhân hết, còn xe máy cả hai sử dụng chung để đi trộm cắp tài sản, 03 dấu mộc vứt bỏ.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 xe máy Yamaha Sirius màu đen biển số 69M1 – 028.93 có giá trị là 8.000.000 đ và 01 laptop hiệu Asus màu đen, bị hại không cung cấp được model sản phẩm nên Hội đồng không định giá được.

Vụ 14: Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 22/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Sirius màu đen (xe lấy trộm tại nhà đường S, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh đã tháo biển thật 69M1 – 02893 và gắn biển giả số 54Z1 – 9589) chở N đến nhà trọ đường Đ, khu phố Y, phường Ê, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Trương Văn V làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được: 01 laptop hiệu Asus màu trắng, một cái bóp bên trong có 01 chnugws minh nhân dân, giấy phép lái xe và 390.000 đ tất cả số tài sản trên được để trong balô màu đen đặt ở giữa nhà. Lấy được tài sản, cả hai đem laptop bán cho tiệm K được 1.000.000 đ. Đ được chia 700.000 đ số tiền còn lại N giữ tiêu xài cá nhân hết.

(01 laptop hiệu Asus màu trắng, bị hại không cung cấp được model nên không định giá được)

Vụ 15: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Sirius màu đen gắn biển số 54Z1 – 9589 chở N đến nhà trọ đường Đường S2, khu phố T2, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Hữu Thị Minh K làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 50.000.000 đ (loại tiền mệnh giá 500.000 đ),

01 hộp nữ trang bên trong có: 01 dây chuyền vàng 24K trọng lượng 2 lượng, 01 nhẫn kiểu hình bông mai vàng 24K trọng lượng 4 chỉ, 01 mặt dây chuyền hình mẹ quan âm vàng 24K trọng lượng 4 chỉ, 01 kiềng đeo tay vàng 18K trọng lượng 5 chỉ, 01 mặt dây chuyền hình bông vàng 18K trọng lượng 1 chỉ, 01 lắc đeo tay vàng 18K trọng lượng 5 chỉ, 02 sợi dây chuyền và 01 lắc đeo tay của em bé trọng lượng 7 chỉ, 01 laptop Toshiba, 01 Ipad Air A1567 màu vàng, 01 xe Visson màu đỏ BS: 59T1 - 24417. Lấy xong Đ và N tẩu thoát về khách sạn Ô.

Lúc này có Nguyễn Thị Thanh T (bạn của N) đang ở trong khách sạn. T thấy N và Đ cầm 01 túi màu xanh đen đi vào nên hỏi thì N mới nói cho T biết là vừa mới đi trộm cắp tài sản về và mở cho T xem. T thấy bên trong có nhiều tiền (không rõ bao nhiêu) và nhiều trang sức bằng vàng, sau đó N cất dưới gầm giường rồi cả ba đi ngủ. Sáng hôm sau, N rủ T và chở T đi bán trang sức ở tiệm vàng D. Đến nơi, N trực tiếp vào bán cho chủ tiệm, còn T đứng ngoài. Sau đó chủ tiệm vàng kiểm tra vàng và hẹn N báo giá sau. N chở T đi chơi games ở Quận I một lúc sau thì Đ đến. Sau đó, chủ tiệm vàng nhắn tin số vàng N bán được 83.870.000 đ. Đ và N cùng nhau đến tiệm vàng lấy tiền rồi chia nhau tiêu xài không có thỏa thuận hay chia tiền cho T. Chiếc laptop cả hai bán cho tiệm điện thoại K nhưng chủ tiệm trả giá rẻ nên cả hai cho luôn chủ tiệm điện thoại K, còn chiếc xe máy và cái ipad cả hai giữ lại sử dụng chung.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 Ipad Air A1567 màu vàng có giá trị là 7.000.000 đ, 01 xe Honda Visson màu đỏ biển số 59T1 – 24417 có giá trị là 18.000.000 đ, còn 01 laptop Toshiba bị hại không cung cấp được model sản phẩm và số vàng không thu hồi được, đồng thời bị hại cũng không cung cấp được hóa đơn mua bán nên không định giá được.

Theo kết luận định giá tài sản số 258 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 dây chuyền vàng 24K trọng lượng 2 lượng, 01 nhẫn kiểu hình bông mai vàng 24K trọng lượng 4 chỉ, 01 mặt dây chuyền hình mẹ quan âm vàng 24K trọng lượng 4 chỉ, 01 kiềng đeo tay vàng 18K trọng lượng 5 chỉ, 01 mặt dây chuyền hình bông vàng 18K trọng lượng 1 chỉ, 01 lắc đeo tay vàng 18K trọng lượng 5 chỉ, 02 sợi dây chuyền và 01 lắc đeo tay của em bé trọng lượng 7 chỉ, tính đến thời điểm bị xâm phạm, có giá trị là 83.000.000 đ.

Đến hôm sau (ngày 26/9/2015), do gần đến ngày sinh nhật của T (ngày 27/9/2015), nên N đã mua tặng cho T 01 xe máy hiệu Luvias, biển số 59L2 – 05540 (nhưng để mẹ T là bà Nguyễn Thị Thanh H đứng tên chủ xe), 01 lắc tay và 01 đôi bông tai bằng vàng để tặng sinh nhật cho T. N không có nói cho T biết tiền mua quà sinh nhật là tiền bán vàng trộm cắp mà có. Còn Đ dùng số tiền vừa nhận được nhờ cha ruột là ông Trần Văn Sơn mua 01 xe máy hiệu Honda Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 để sử dụng và 01 xe máy Dream màu nho, biển số 53X8-3495 cho ông Sơn sử dụng nhưng không nói cho ông Sơn biết số tiền trên do trộm cắp mà có.

Theo kết luận định giá tài sản số 319 ngày 01/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 xe máy hiệu Luvias, biển số 59L2 – 05540 có giá trị là 15.000.000 đ, 01 xe máy hiệu Honda Blade, biển số 59L2-14783 có giá trị là 13.000.000 đ, 01 xe máy Dream, biển số 53X8-3495 có giá trị 2.000.000 đ, 01 lắc tay kim loại màu vàng có giá trị là 4.888.520 đ và 01 đôi bông tai kim loại màu vàng có giá trị là 2.003.040 đ.

Vụ 16: Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 30/9/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Honda Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà đường U, khu phố P, V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Bùi Võ Quang M làm chủ. Thấy nhà khóa cửa ngoài, người trong nhà đã ngủ say, Đ đứng ngoài cảnh giới,

N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 xe máy hiệu Honda SH màu đen, biển số 59B1 – 244.72. Lấy được tài sản, cả hai đem bán xe máy cho 1 người tên Phong (không rõ lai lịch) ở Quận I được 15.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 7.500.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 xe máy Honda SH màu đen biển số 59B1 – 24472 có giá trị là 60.000.000 đ.

Vụ 17: Vào lúc 04 giờ 30 ngày 01/10/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ đường X, khu phố Y, phường Ê, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Nguyễn Thế H làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop Asus màu đen để trên lầu. Lấy được tài sản, cả hai đem laptop  bán  cho tiệm K  được  2.000.000  đ,  chia nhau mỗi  người  được 1.000.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

(01 laptop Asus màu đen, bị hại không cung cấp được model sản phẩm nên không định giá được)

Vụ 18: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 06/10/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ đường Ă, khu phố Â, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Trần Nguyễn Ngọc Y làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 02 laptop: 01 cái laptop Dell màu đen và 01 laptop Acer màu xám trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 02 máy laptop trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 1.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 500.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

(01 cái laptop Dell màu đen và 01 laptop Acer màu xám, bị hại không cung cấp được model nên không định giá được)

Vụ 19: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/10/2015, N điều khiển xe máy hiệu Luvias, biển số 59L2 – 144.50 (xe này do N mua bằng tiền trộm cắp có được từ vụ trộm tại đường Đường S2, khu phố T2, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh mua tặng cho bạn gái N tên là Nguyễn Thị Thanh T) chở Đ đến nhà trọ đường O, khu phố P, Q, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Huỳnh Thị Thu T làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 11.000.000 đ, 01 điện thoại di động màu trắng hiệu Mobile, 01 hộp nữ trang bên trong có: 01 sợi dây chuyền 2,5 chỉ vàng trắng, 01 mặt dây chuyền hình phật cẩm thạch 2,5 chỉ vàng 24K, 01 sợi dây chuyền 5 chỉ vàng 18K, 01 nhẫn 5 chỉ vàng 24K, 01 nhẫn 2 chỉ vàng 18K đính hột đỏ, 02 nhẫn 1 chỉ vàng 24K, 01 đồng tiền 3 phân vàng 18K và 01 đôi bông tai trẻ em 5 phân vàng 18K. Lấy được tài sản, cả hai đem bán số nữ trang vàng tại tiệm vàng D được 25.000.000 đ, cùng với số tiền 11.000.000 đ chia nhau mỗi người được 18.000.000 đ, số tiền này bọn chúng đã tiêu xài cá nhân hết. Còn điện thoại màu trắng hiệu Mobile do không có bán được nên cả hai giữ lại và để đâu không nhớ.

(01 điện thoại di động màu trắng hiệu Mobile do không thu hồi được, đồng thời bị hại không cung cấp được model sản phẩm và hóa đơn mua bán nên không định giá được)

Theo kết luận định giá tài sản số 258 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 sợi dây chuyền 2,5 chỉ vàng trắng, 01 mặt dây chuyền hình phật cẩm thạch 2,5 chỉ vàng 24K, 01 sợi dây chuyền 5 chỉ vàng 18K, 01 nhẫn 5 chỉ vàng 24K, 01 nhẫn 2 chỉ vàng 18K đính hột đỏ, 02 nhẫn 1 chỉ vàng 24K, 01 đồng tiền 3 phân vàng 18K và 01 đôi bông tai trẻ em 5 phân vàng 18K, tính đến thời điểm bị xâm phạm, có giá trị là 25.000.000 đ.

Vụ 20: Vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 11/10/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ đường Ă, khu phố P, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Lương Hoàng Khánh D làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop hiệu Asus GJ751JY-T7075D, 01 điện thoại Nokia 107, 01 máy chụp hình hiệu Canon 60D, 01 ống kính máy chụp hình hiệu Tamron, 01 baterry Grip, 01 bàn phím cơ hiệu Ducky, 03 tai nghe nhạc hiệu Beats, 01 giấy chứng minh nhân dân và số tiền 22.000.000 đ. Lấy được tài sản, cả hai đem bán laptop Asus, máy ảnh Canon 60D, baterry grip, ống kính Tamron cho cửa hàng Lê Duy – số 583, đường Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh được 18.500.000 đ, giấy chứng minh nhân dân và điện thoại Nokia 107 và 02 tai nghe Beats đã bị mất, bàn phím cơ Ducky và 01 tai nghe cả hai sử dụng. Số tiền thu được, cả hai chia nhau mỗi người được 20.250.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 laptop hiệu Asus GJ751JY-T7075D có giá trị là 35.000.000 đ, 01 điện thoại Nokia 107 có giá trị là 200.000 đ, 01 máy chụp hình hiệu Canon 60D có giá trị là 7.000.000 đ, 01 ống kính máy chụp hình hiệu Tamron có giá trị là 3.000.000 đ, 01 baterry Grip có giá trị là 1.000.000 đ, 01 bàn phím cơ hiệu Ducky có giá trị là 600.000 đ, 03 tai nghe nhạc hiệu Beats đời 2012 và 2013 có tổng giá trị là 7.000.000 đ.

Vụ 21: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 11/10/2015, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ đường Đường S2, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Phùng Thị Cẩm C làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà l lấy trộm được 01 Ipad 2 loại 16Gb màu đen và đập con heo đất để trên gác được 5.500.000 đ. Lấy được tài sản, cả hai chia nhau mỗi người được 2.750.000 đ tiêu xài cá nhân hết, còn ipad cả hai giữ lại để sử dụng.

Theo kết luận định giá tài sản số 283 ngày 26/10/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7 thì 01 Ipad 2 loại 16Gb màu đen có giá trị là 2.400.000 đ.

Vụ 22: Vào buổi trưa cách ngày bị bắt khoảng 03 tháng, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu xám, biển số 52P2-5654 chở N đến nhà trọ đường R, khu phố P, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 02 máy laptop màu đen để ở trên bàn trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 02 máy laptop trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 6.500.000 đ, chia nhau mỗi người được 3.250.000 đ, tiêu xài cá nhân hết.

(Qua xác minh không có bị hại và cũng không thu hồi được vật chứng nên không định giá được)

Vụ 23: Vào buổi sáng cách ngày bị bắt khoảng 01 tháng, Đ điều khiển xe máy hiệu Wave màu đỏ gắn biển số 66S1-17748 chở N đến phòng 14 nhà trọ đường Ă, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop màu đen để ở trong balô màu đen để ở phòng dưới đất, 01 ipad màu trắng và 01 máy chụp hình Canon trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán 01 máy laptop, 01 Ipad và máy chụp hình trên tại tiệm K được 8.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 4.000.000 đ, tiêu xài cá nhân hết.

(Qua xác minh không có bị hại và cũng không thu hồi được vật chứng nên không định giá được)

Vụ 24: Vào buổi tối cách ngày bị bắt 02 tuần, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà đường R, khu phố P, T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop màu đen và 01 máy tính bảng màu đen để ở trong tủ dưới đất, 01 laptop màu đen để trong tủ trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán tài sản trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 4.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 2.000.000 đ, tiêu xài cá nhân hết.

(Qua xác minh không có bị hại và cũng không thu hồi được vật chứng nên không định giá được)

Vụ 25: Vào trưa cách ngày bị bắt gần 2 tuần, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ đường O, khu phố T2, phường Tân Phong, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, N đứng ngoài cảnh giới, Đ dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó Đ vào trong nhà lấy trộm được: 01 laptop màu đen để trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem laptop bán cho tiệm K tại quận I được 2.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.000.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

(Qua xác minh không có bị hại và cũng không thu hồi được vật chứng nên không định giá được)

Vụ 26: Vào buổi tối cách ngày bị bắt khoảng 10 ngày, Đ điều khiển xe máy hiệu Blade màu trắng, biển số 59L2-14783 chở N đến nhà trọ số 861/27/58, đường Ă, khu phố Â, phường E, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh do anh Lâm Quốc B làm chủ. Thấy phòng trọ khóa cửa ngoài, không có người trong nhà, Đ đứng ngoài cảnh giới, N dùng cây đoản lục giác bằng thép mở bung ổ khóa. Sau đó N vào trong nhà lấy trộm được 01 laptop màu đen ở trên gác. Lấy được tài sản, cả hai đem bán máy laptop trên tại tiệm mua bán điện thoại di động K được 2.000.000 đ, chia nhau mỗi người được 1.000.000 đ tiêu xài cá nhân hết.

(01 laptop màu đen, bị hại không cung cấp được model sản phẩm nên không định giá được)

Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận 7, Chung Bá N, Nguyễn Trung Đ và Nguyễn Thị Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2018/HS-ST ngày 09/11/2018, Tòa án nhân dân quận 7 quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Chung Bá N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điểm a, Khoản 3, Điều 173; Điểm r, s, Khoản 1, Điều 51; Điểm a, b, g, Khoản 1, Điều 52; Điều 91; Điều 98; Khoản 2, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017;

Xử phạt bị cáo Chung Bá N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/10/2015.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 02 (hai) bị cáo khác; trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm; quyền kháng cáo và việc thi hành án.

Ngày 22/11/2018, bị cáo N kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên phát biểu:

Đơn kháng cáo của bị cáo N còn trong thời hạn luật định. Bị cáo N đã trộm cắp tài sản nhiều lần, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 404.440.000 đ, phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên, có tính chất chuyên nghiệp gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điểm a, Khoản 3, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm r, s, Khoản 1, Điều 51; Điểm a, b, g, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi, xử phạt bị cáo N 04 năm tù là có căn cứ. Bị cáo N kháng cáo đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm t, Khoản 1, Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 là không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo – NBC trình bày: Trong 26 vụ trộm cắp, bị cáo N đã tự thú khai thêm các vụ chưa bị phát hiện và tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra nên đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm t, Khoản 1, Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017. Do vụ án bị hủy án sơ thẩm để điều tra lại dẫn đến thời gian bị cáo N bị tạm giam dài, bị cáo mất cơ hội được giảm án nếu chấp hành án, lao động tốt nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo N như mức án sơ thẩm lần 1 đã xử phạt bị cáo.

Bị cáo Chung Bá N trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm t, Khoản 1, Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017, giảm hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Chung Bá N, người bào chữa cho bị cáo – NBC và Kiểm sát viên đều thống nhất xác định bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 (áp dụng quy định có lợi theo quy định tại Khoản 3, Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và không có kháng cáo, kháng nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo.

[2] Bị cáo N nhiều lần (26 lần) cùng bị cáo Nguyễn Trung Đ thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 404.440.000 đ (bốn trăm lẻ bốn triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng). Bị cáo N có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên và có tính chất chuyên nghiệp theo quy định tại Điểm a, b, g, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017. Khi phạm tội, bị cáo N là người chưa thành niên (15 tuổi 04 tháng 16 ngày – 15 tuổi 07 tháng 20 ngày); trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt; tự thú nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điểm r, s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 91; Khoản 2, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo N 04 (bốn) năm tù là nhẹ so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Trong quá trình điều tra, bị cáo N đã khai nhận thêm các vụ trộm cắp tài sản khác nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “tự thú” quy định tại Điểm r, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 cho bị cáo nên không có căn cứ để chấp nhận đề nghị của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm t, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 cho bị cáo.

[4] Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo N. Do không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo N nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì: Do Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm nên bị cáo N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

Căn cứ vào Điểm b, Khoản 2, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chung Bá N và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điểm a, Khoản 3, Điều 173; Khoản 3, Điều 7; Điểm r, s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điểm a, b, g, Khoản 1, Điều 52; Điều 91; Khoản 2, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Chung Bá N 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2015.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Chung Bá N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về: Tội danh đối với bị cáo Chung Bá N và tội danh, trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác; trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-PT ngày 28/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về