Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 25-01-2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 563/2018/TLST-HNGĐ ngày 14-12-2018 về tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10-01-2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh N - sinh năm 1979; Địa chỉ cư trú tại: Số 312 khu 4 tầng đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Phạm Xuân T - sinh năm 1976; Địa chỉ cư trú tại: Số 312 khu 4 tầng đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.

Tại phiên toà chị N có mặt, anh T vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án và tại phiên toà nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Uỷ ban nhân dân phường V, thành phố N. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không tu chí làm ăn, không quan tâm, chăm sóc gia đình vợ con. Đến nay tình cảm không còn nên chị xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Phạm Quỳnh T, sinh ngày 22-01-2003 và Phạm Khánh C, sinh ngày 18-02-2011. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng xin trực tiếp nuôi hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Phạm Xuân T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Thành không đến Tòa án giải quyết mà không có lý do gì;

Tại đơn đề nghị ngày 03-01-2019 đã được địa phương nơi cư trú xác nhận vợ chồng chị N anh T thời gian chung sống có xảy ra mâu thuẫn.

Các con chung Phạm Quỳnh T và Phạm Khánh C đều có đơn trình bầy nguyện vọng xin được ở với mẹ là Trần Thị Thanh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Xuân T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng; ngoài ra còn được tống đạt Giấy triệu tập nhiều lần; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh T không đến Tòa án giải quyết, không có lý do; vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thanh N và anh Phạm Xuân T tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Uỷ ban nhân dân phường Vỵ Xuyên, thành phố Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh T không có trách nhiệm với gia đình, vợ con, tình cảm vợ chồng không còn nên chị N xin ly hôn; chính quyền địa phương cũng xác nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không đến Tòa án giải quyết mâu thuẫn gia đình, hiện tại anh Thành đã bỏ đi ở nơi khác, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, chứng tỏ vợ chồng không thể khắc phục mâu thuẫn nên hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không còn trên thực tế, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử ly hôn giữa chị N và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị Thanh N và anh Phạm Xuân T có hai con chung là Phạm Quỳnh T, sinh ngày 22-01-2003 và Phạm Khánh C, sinh ngày 18-02-2011. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi hai con, anh T không đến Tòa án giải quyết nên không có quan điểm gì; cháu T và cháu C đều có đơn trình bày nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì xin ở với mẹ. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, anh T không đến giải quyết nên không có quan điểm về con chung, chứng tỏ anh T không quan tâm đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy để bảo đảm sự ổn định việc học tập và phát triển cho các cháu, nên cần giao hai con chung cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với các quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con không vi phạm đạo đức xã hội, không trái với quy định của pháp luật nên được ghi nhận.

[4] Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Chị Trần Thị Thanh N không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh N và anh Phạm Xuân T;

2. Về con chung: Giao chị Trần Thị Thanh N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung là Phạm Quỳnh T, sinh ngày 22-01-2003 và Phạm Khánh C, sinh ngày 18-02-2011. Ghi nhận tự nguyện của chị Trần Thị Thanh N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con;

Anh Phạm Xuân T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Thanh N phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000398 ngày 14-12-2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Nam Định.

Chị Trần Thị Thanh N có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Phạm Xuân T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về ly hôn

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về