Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13/11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số số 180/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 07 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐST-DS ngày 23 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị T, sinh năm 1994.(có đơn xin xử vắng mặt).

Địa chỉ: Bản S, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bị đơn: Anh Đinh Văn C, sinh năm 1986 (có đơn xin xử vắng mặt).

Địa chỉ: Bản S, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Người phiên dịch cho anh C: Ông Đinh Văn P, sinh năm 1962 là bố ruột anh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện và trong bản tự khai ngày 16/9/2019 chị T trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị T và anh Đinh Văn C đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 29 /9/2011 tại UBND xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình trên cơ sở tự nguyên, Hôn nhân giữa hai người là hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng chị sống cùng bố mẹ anh C tại Bản S, xã K được 1 năm, do điều kiện kinh tế khó khăn nên chị T đi làm ăn kinh tế để có tiền nuôi con và trang trải sinh hoạt. Nhưng chồng và gia đình chồng không chấp nhận từ đó dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, mâu thuẫn gia đình chồng, nên chị T đã mang con về nhà mẹ đẻ ở bản S, xã K và sống ly thân với anh C đã 5 năm nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C để ổn định cuộc sống.

2. Về con chung: Vợ chồng chị T và anh C có 01 con chung là cháu Đinh Thị Bích T, sinh ngày 12/11/2011 hiện nay đang ở với chị T (thực tế chị T xác định cháu T là con riêng của chị với người đàn ông khác, khi chị lấy anh C thì chị đã có thai được khoảng 4 - 5 tháng và được anh C đồng ý nhận làm con chung), chị đề nghị Tòa án xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh C bị câm, điếc và làm ruộng thu nhập thấp.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Chị T xác định không có, nên không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của anh C: Tại biên bản lấy khai ngày 9/10/2019 với sự có mặt của ông Đinh Văn P là bố đẻ anh C (là người phiên dịch cho anh C vì anh C bị câm điếc) anh C xác định, anh đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh, tuy nhiên do điều kiện công việc bận và việc đi lại khó khăn nên không đến Tòa được. Nay chị T xin ly hôn, ý kiến anh như sau:

1. Về tình cảm: Anh nhất trí ly hôn với chị T vì vợ chồng đã sống ly thân hơn 4 năm nay không quan tâm đến nhau, khi nào Tòa án xử ly hôn, anh nhất trí để Tòa án xử vắng mặt anh. Anh C cũng không đề nghị trợ giúp pháp lý đối với việc ly hôn của anh với chị T.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chng: Anh xác định như chị T trình bày và nhất trí để chị T nuôi cháu T, do điều kiện kinh tế của anh rất khó khăn, lại bị câm, điếc bẩm sinh nên không có khả năng cấp dưỡng nuôi cháu T cùng chị T.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. - Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tại phiên tòa, chị T và anh C đều có đơn xin xử vắng mặt, Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại điều 227,228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị T.

Xử ly hôn giữa chị Đinh Thị T và anh Đinh Văn C.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Đinh Thị Bích T, sinh ngày 12/11/2011, hiện nay đang ở với chị T cho chị tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

3. Về án phí ly hôn: Chị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Đinh Thị T với anh Đinh Văn C. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị T. Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Đến ngày 30/9/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về hôn nhân: Chị Đinh Thị T và anh Đinh Văn C kết hôn với nhau vào ngày 29/9/2011 đăng ký tại UBND xã K, huyện N trên cơ sở tự nguyện, hôn nhân của hai người là hợp pháp.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị T trình bày là do điều kiện kinh tế khó khăn nên chị phải đi làm kinh tế nhưng gia đình chồng và chồng không nhất trí, từ đó dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng và gia đình chồng. Trên thực tế vợ chồng chị T chỉ sống với nhau được một thời gian ngắn. Chị T và anh C đã sống ly thân nhiều năm không quan tâm đến nhau nữa, chị T đã mang con về nhà mẹ đẻ ở, chị T và anh C cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T. Xử ly hôn giữa chị T và anh C là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Vợ chồng chị T có một con chung là cháu Đinh Thị Bích T, sinh ngày 12/11/2011 hiện nay đang ở với chị T. Xét đề nghị của chị T, chị có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con vì chị là công nhân có thu nhập ổn định, từ khi con chung còn nhỏ đã ở với chị, cháu đã ổn định. Đối với anh C làm ruộng thu nhập thấp, bản thân anh C lại câm, điếc, không có điều kiện để chăm sóc quan tâm đến con. Vì vậy cần giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con chung cần chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, vì vậy anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Chị T và anh C đều xác định không có và không yêu cầu Tòa giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị T. Xử ly hôn giữa chị Đinh Thị T và anh Đinh Văn C.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Đinh Thị Bích T , sinh ngày 12/11/2011 hiện nay đang ở với chị T cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp 300.000 đồng, chị T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000216 ngày 08/07/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí. Án xử công khai sơ thẩm chị T và anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về