Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 405/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 về “Ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị T, sinh năm 1972; Có mặt.

Địa chỉ hộ khẩu thường trú: Ấp H L, xã A H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Địa chỉ tạm trú: Ấp H H, xã A H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1970; Có mặt.

Địa chỉ: Ấp H L, xã A H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phan Thị T trình bày:

Chị và anh Đ chung sống với nhau vào năm 1990, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã A H. Sau khi cưới, vợ chồng sống chung với gia đình bên chồng tại ấp H L, xã A H cho đến nay. Quá trình chung sống giữa chị và anh Đ thường xuyên mâu thuẫn nhau. Nguyên nhân do anh Đ thường xuyên say xỉn về nhà kiếm cớ đánh đập chị, nhiều lần anh Đ đánh chị bị thương phải vào viện để điều trị. Chị nhiều lần khuyên anh Đ thay đổi nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Cách đây 03 năm, Công an xã A H có mời anh Đ lên làm việc về việc anh Đ đánh chị. Tại Công an xã A H, anh Đ có viết cam kết về việc sẽ không đánh chị nữa nhưng từ đó đến nay anh Đ vẫn vô cớ đánh chị vài lần, chửi chị bằng những lời lẽ thô tục. Ngoài ra, chị còn nghi ngờ anh Đ có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Vào tối ngày 16-5-2019, anh Đ lại gây chuyện và đánh chị một bạt tay nên chị bỏ về nhà mẹ ruột sống và vợ chồng ly thân đến nay. Từ khi ly thân, anh Đ nhiều lần kêu chị về chung sống lại nhưng chị không đồng ý.

Nay chị yêu cầu được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên: Phan Thị Thảo T, sinh ngày 03-10-1991 và Phan Minh N, sinh ngày 25-9-1995, hiện hai con chung đều đã trưởng thành và có gia đình riêng nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết việc nuôi dưỡng khi ly hôn.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, bị đơn anh Phan Văn Đ trình bày:

Anh thừa nhận lời trình bày của chị T về thời gian chung sống, ly thân, con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng anh thừa nhận trước đây anh có đánh chị T vì ghen. Nhưng từ khi viết cam kết tại Công an xã A H cách đây khoảng 03 năm thì anh không còn đánh chị T nữa, cũng không thường xuyên uống rượu như trước. Nhiều khi trong lúc say không kiềm chế được anh có nói những lời xúc phạm chị T, từ nay anh hứa sẽ thay đổi để vợ chồng chung sống hạnh phúc lại. Anh cũng không có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác như chị T trình bày mà là do chị T hiểu lầm. Vào tối ngày 16-5-2019, anh không có đánh chị T mà trong lúc vợ chồng cãi nhau nên có giằng co với nhau.

Nay anh yêu cầu được đoàn tụ cùng chị T.

Nếu Toà giải quyết cho vợ chồng ly hôn, anh có nguyện vọng như sau:

Về con chung: Cháu Phan Thị Thảo T, sinh ngày 03-10-1991 và Phan Minh N, sinh ngày 25-9-1995 đều đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không yêu cầu Toà án giải quyết việc nuôi dưỡng khi ly hôn.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xem xét quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị T đối với anh Phan Văn Đ.

Về con chung: Cháu Phan Thị Thảo T, sinh ngày 03-10-1991 và Phan Minh N, sinh ngày 25-9-1995 đều đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết. Về nợ chung: Không có, không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Đ chung sống với nhau vào năm 1990, có đăng ký kết hôn vào năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã A H nên được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do anh Đ thường uống rượu về kiếm chuyện đánh chị T. Cách đây 03 năm, anh Đ đã bị Công an xã A H mời lên làm việc về việc anh Đ đánh chị T và anh Đ đã viết bản cam kết sẽ không đánh chị T nữa. Tuy nhiên, sau khi anh Đ viết bản cam kết thì cuộc sống vợ chồng vẫn không hạnh phúc, chị T cho rằng anh Đ vẫn còn đánh chị, chửi chị trong lúc say, ngoài ra chị còn nghi ngờ anh Đ có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác; anh Đ không thừa nhận có đánh chị T cũng không có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Vợ chồng ly thân từ tháng 5-2019 đến nay, từ khi ly thân anh Đ nhiều lần đặt vấn đề đoàn tụ với chị T nhưng chị T không đồng ý. Toà án đã tiến hành hoà giải cho anh Đ và chị T hai lần nhưng chị T vẫn kiên quyết ly hôn. Qua kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Trước đây anh Đ cũng thường uống rượu về đánh chị T nhưng thời gian gần đây thì không rõ anh Đ có đánh chị T nữa hay không. Từ những phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Đ đã đến mức trầm trọng, kéo dài nhiều năm nay, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn anh Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Chị T và anh Đ có hai con chung tên Phan Thị Thảo T, sinh ngày 03-10-1991 và Phan Minh N, sinh ngày 25-9-1995. Hiện nay hai con chung đều đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

[3] Về tài sản chung: Chị T và anh Đ không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về nợ chung: Không có, không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Phan Thị T được ly hôn anh Phan Văn Đ.

2. Về con chung: Hai con chung tên Phan Thị Thảo T, sinh ngày 03-10-1991 và Phan Minh N, sinh ngày 25-9-1995 đều đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Phan Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017250 ngày 20 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị T đã nộp đủ án phí.

5. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn 

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về